Trang trước Mục lục Trang sau  

CHƯƠNG VII

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ SẢN XUẤT

 hè là một cây công nghiệp lâu năm có giá trị tiêu dùng và xuất khẩu lớn.

Nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của chè rất rộng và ngày càng tăng lên. Thiên nhiên nước ta rất phong phú và đa dạng, lực lượng lao động nông nghiệp lại rất dồi dào, chúng ta có những điều kiện cần thiết để nhanh chóng phát triển ngành chè trên quy mô lớn hàng chục vạn hecta.

I - PHƯƠNG HƯỚNG VÀ QUY MÔ SẢN XUẤT CHÈ TRONG NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH VÀ HỢP TÁC XÃ

1) Phân vùng sản xuất chè:

Tính thích nghi của cây chè tương đối rộng. Hầu hết đất đai các vùng trung du và miền núi nước ta thích hợp cho cây chè phát triển; khả năng mở rộng diện tích trồng chè còn khá lớn.

Nghị quyết II của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng (1977), phần nói về phương hướng nhiệm vụ phát triển nông nghiệp có nêu rõ: "Phát triển chè, chủ yếu ở Trung du, Miền núi Bắc Bộ, Khu 4 cũ và Tây Nguyên".

Song để tạo được một khối lượng hàng hóa lớn phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời để kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất nông nghiệp với công gnhiệp, trước hết là công nghiệp chế biến, cần phải quy hoạch các vùng trồng chè theo hướng tập trung lớn và chuyên canh.

Kết quả bước đầu của việc điều tra quy hoạch cho thấy khả năng phát triển một số vùng chè tập trung như sau:

- Hà Tuyên: 10.000 - 12.000 ha đất trồng chè, chủ yếu ở các huyện Vị Xuyên, Bắc Quang, Yên Sơn, Sơn Dương.

- Bắc Thái: 5.000 - 7.000 ha, tập trung ở các huyện Đại Từ, Phú Lương, Định Hóa, Đồng Hỷ.

- Vĩnh Phú: khoảng 10.000 ha, chủ yếu ở các huyện Sông Lô, Sông Thao, Thanh Sơn.

- Hoàng Liên Sơn: 12.000 - 15.000 ha, tập trung ở các huyện Văn Chấn, Trấn Yên.

- Nghệ Tĩnh: 8.000 ha, chủ yếu ở các huyện Thanh Chương, Anh Sơn, Nghĩa Đàn, Hương Sơn, Hương Khê.

- Thanh Hóa: 2.800 - 3.000 ha tập trung nhiều ở Như Xuân.

- Bình Trị Thiên: khoảng 2.200 - 2.500 ha.

- Lâm Đồng: khả năng phát triển trên 20.000 ha, chủ yếu ở Bảo Lộc, Di Linh.

- Gia Lai - Công Tum cũng có trên 10.000 ha.

Sản xuất tập trung và chuyên canh mang lại nhiều lợi ích rõ rệt: hàng hóa nông sản tăng lên nhanh chóng, mặt khác tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao trình độ thâm canh và hiệu quả ngành trồng chè.

Tuy nhiên, mức độ tập trung trồng chè trong các vùng không giống nhau điều đó phụ thuộc vào:

- Phương hướng sản xuất của từng vùng và địa vị ngành trồng chè trong cơ cấu kinh tế của vùng.

- Điều kiện đất đai, khí hậu và khả năng trang bị kỹ thuật sản xuất trồng trọt, chế biến và khả năng tập trung lao động.

Trong chừng mực nhất định, ta cần xét đến mối quan hệ chi phối giữa công suất nhà máy chế biến với quy mô diện tích đất trồng chè. Hiện nay ta nhập trang thiết bị của 3 loại nhà máy có công suất 13,5 tấn/ngày, 27 tấn/ ngày và 42 tấn/ ngày. Nếu tính năng suất bình quân 1ha chè kinh doanh 5 tấn búp tươi thì diện tích tương ứng là 500 - 700 ha, 1.000 - 1.400 ha và 1.500 - 2.000 ha.

Cây chè chủ yếu được trồng trong 2 khu vực nông trường quốc doanh và hợp tác xã.

Trong một vùng sản xuất thường có nhiều đơn vị sản xuất ví dụ như: vùng chè huyện Sông Lô (Vĩnh Phú) được hình thành trên cơ sở phát triển của 2 nông trường Vân Lĩnh, Vân Hùng và một số hợp tác xã trồng chè trong vùng.

2) Phương hướng sản xuất và quy mô:

Các nông trường quốc doanh và hợp tác xã trước khi tổ chức sản xuất chè cần xác định đúng đắn phương hướng sản xuất và quy mô.

Đối với các xí nghiệp lấy sản xuất chè làm chính thì phương hướng sản xuất thường là: Chè - chăn nuôi, ngoài ra còn kết hợp một số ngành bổ sung khác như trồng hoa màu, nuôi ong.

Trong điều kiện đó, cây chè vẫn còn diện tích lớn nhất, được ưu tiên về đất đai, trang bị kỹ thuật, tiền vốn, lao động... Cây chè được tập trung thâm canh cao hơn.

Ngành chăn nuôi phát triển, chủ yếu là chăn nuôi bò, nhằm để tận dụng triệt để hơn các bãi chăn, đồng cỏ, cỏ đường lô; cung cấp thực phẩm cho xã hội và nhiều phân bón thâm canh chè.

Phát triển hoa màu tăng nguồn lương thực cho người và thức ăn cho gia súc; mặt khác, tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc sử dụng công cụ sản xuất, cơ khí hóa và lao động.

Một số cơ sở đã chú ý đến việc nuôi ong. Đàn ong lợi dụng được nguồn hoa của chè và của một số cây hoa màu, cây rừng chắn gió hay cỏ cây thiên nhiên trong vùng.

Tổng kết 20 năm thành lập nông trường Mộc Châu cho thấy sự kết hợp giữa chè - chăn nuôi bò và cây thức ăn đã tạo thế cho nông trường phát triển thuận lợi:

- Cây chè được thâm canh cao, năng suất chè Shan đạt bình quân 120 - 140 tạ/ha, hàng năm sản xuất từ 4.000 - 4.500 tấn chè búp tươi, cung cấp cho xuất khẩu trên 700 tấn chè khô, là ngành cung cấp lãi chủ yếu hàng triệu đồng.

- Hạn chế được tính thời vụ trong sử dụng lao động, lợi dụng được hệ thống công nghiệp phục vụ.

- Hàng tháng đều có sản phẩm tiêu thụ, đã giảm được số vốn lưu thông, tăng số vòng quay của vốn từ 2 lần (1970) lên 3 lần (1975) và 5,38 lần (1977).

Đối với các xí nghiệp lấy sản xuất chè là thứ yếu, thì phương hướng sản xuất thường được xác định:

Chăn nuôi bò - chè - cây thức ăn.

Cà phê - chè - chăn nuôi.

Trong trường hợp này quy mô ngành chè không lớn, nhưng các cơ sở cũng cần phải chọn đất thích hợp, cần có quy hoạch tập trung liền vùng, vẫn phải bố trí những đội sản xuất chuyên ngành để sản xuất và quản lý.

Do sự phân chia công đoạn sản xuất và quản lý mà sản phẩm ngành chè cũng phân ra các dạng khác nhau: chè búp tươi, chè sơ chế, chè tinh chế.

Hiện nay cũng đã hình thành 2 hình thức quản lý sản xuất chè: 

a) Hình thức sản xuất thứ nhất:

Chè búp tươi là sản phẩm cuối cùng của xí nghiệp, bản thân nông trường quốc doanh và hợp tác xã không có xưởng chế biến riêng. Chè búp tươi thu được đem giao bán cho nhà máy chế biến chè trong vùng.

Hình thức này có sự phân công chuyên môn hóa cao và hạch toán kinh tế độc lập, có điều kiện mở rộng quy mô diện tích trồng chè, nâng công suất trang bị của nhà máy chế biến. Nhìn trên phạm vi toàn cục mà xét, như vậy là có lợi. Tuy nhiên, hiện nay trong mối quan hệ lợi ích giữa các xí nghiệp còn một số tồn tại cần lưu ý giải quyết:

- Cơ sở và phương thức phân loại, đánh giá phẩm cấp các loại chè búp tươi khi đem giao bán giữa xí nghiệp nông nghiệp với nhà máy chè.

- Vấn đề giá cả về sự phân chia mức lãi và tiền được trích lập quỹ giữa hai loại xí nghiệp nhằm khuyến khích sản xuất và cải thiện đời sống người lao động nông nghiệp và công nghiệp.

- Tăng cường đầu tư cơ khí và trang bị cơ sở phúc lợi để cải tiến điều kiện làm việc và đời sống trong xí nghiệp nông nghiệp.

 b) Hình thức quản lý thứ hai:

Sản xuất trồng chè và chế biến ở trong cùng một xí nghiệp, chè sơ chế (có nơi gồm cả tinh chế đóng gói) là sản phẩm cuối cùng của xí nghiệp nông nghiệp, xí nghiệp thực hiện hạch toán độc lập thống nhất, còn các đơn vị, đội chè và xưởng thực hiện hạch toán kinh tế nội bộ.

Sự khép kín này được hình thành từ lâu trong nhiều nông trường quốc doanh và một số hợp tác xã. Cách quản lý này hiện nay có nhiều người ưa thích:

- Sản xuất khép kín, quản lý thống nhất, kế hoạch và sản xuất chủ động, có điều kiện xây dựng được hệ thống nông - công nghiệp, tạo thế phát triển đồng bộ, phát huy được sức mạnh tổng hợp.

- Kết hợp chế độ hạch toán kinh tế nội bộ với hạch toán độc lập của xí nghiệp, nên có thể chuyển những mâu thuẫn trên kia trở thành sự điều hòa nội bộ; trực tiếp khuyến khích sản xuất.

II. TỔ CHỨC SẢN XUẤT NGÀNH CHÈ

1) Quy hoạch đất trồng chè:

Quy hoạch đất trồng chè là một bộ phận gắn liền với nội dung quy hoạch xí nghiệp cụ thể:

- Xác định các loại đất, diện tích đất các vùng trồng chè thích hợp nhất trong xí nghiệp.

- Chọn địa điểm xây dựng xưởng chế biến, khu trung tâm, các đội chè và các lán nhập và bán chè hàng ngày.

- Bố trí hệ thống đường vận chuyển, đường lô; quy hoạch thiết kế diện tích, kích thước và hình thể của các lô trồng chè.

- Tổ chức hệ thống thủy lợi tưới, tiêu nước, rừng cây chắn gió, các công trình chống xói mòn, cây phủ đất và cây phân xanh, rác tủ. Trong thời gian đầu còn xác định khu trồng chè giống lấy hạt, vườn ươm cây con, giâm cành chè.

Cơ sở để quy hoạch đất trồng chè là:

- Dựa vào địa vị, quy mô và hình thức quản lý ngành sản xuất chè trong xí nghiệp.

- Dựa vào tính chất và địa hình đất đai, khả năng trang bị và mức độ sử dụng các loại máy móc, công cụ và kỹ thuật sản xuất chè trong xí nghiệp.

Dự kiến kế hoạch phát triển diện tích trồng chè cả nước đến năm 1985 là 109.381 ha. Trong đó Miền bắc: 80.131 ha và Miền nam: 29.250 ha.

Năng suất và sản lượng trên diện tích kinh doanh đến năm 1985 như sau:

 Bảng 27

Khu vực

Diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng (tấn)

- Cả nước

Quốc doanh

Hợp tác xã

- Miền bắc

Quốc doanh

Hợp tác xã

- Miền nam

Quốc doanh

Hợp tác xã

79.161

35.771

43.390

64.761

25.371

39.390

14.400

10.400

4.000

44,19

51,75

37,99

42,54

51,49

36,99

51,61

52,48

49,37

349.859

185.019

164.840

275.529

130.439

145.090

74.330

54.580

19.750

 Kinh nghiệm một số cơ sở trồng chè cho thấy:

Để tiện cho sản xuất và quản lý, trồng chè phải đảm bảo tính tập trung về không gian và thời gian. Các nông trường, hợp tác xã cần cố gắng dành đất trồng tập trung, liền đồi, liền khoảnh, cần dồn sức trồng dứt điểm từng khu vực lớn để tiện cho việc thiết kế xây dựng đồng ruộng và đầu tư các công trình giao thông thủy lợi. Quá nhiều tuổi chè sẽ hình thành rất nhiều hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật, càng phức tạp thêm về công tác kế hoạch, hạch toán, tổ chức quản lý lao động và chỉ đạo thực hiện kế hoạch. Nói chung những khu vực trồng mới nên định hình sớm, không nên kéo dài quá 5 năm. Tùy điều kiện đất đai, địa hình từng nơi, trong một nông trường quốc doanh hoặc hợp tác xã có thể gồm 1, 2 hoặc 3 khu chuyên canh chè. Cần ưu tiên và có kế hoạch cải tạo đất để diện tích trồng chè chiếm tỷ lệ lớn nhất, ngoài ra có thể có một số cây kết hợp như cây rừng hoặc cây lâu năm khác để sử dụng hết đất đai và điều hòa lao động mùa vụ trong năm.

 2) Tổ chức quá trình sản xuất chè:

Quá trình sản xuất ngành chè có thể chia ra 2 quá trình chính:

- Quá trình sản xuất trồng trọt (chè kiến thiết cơ bản và chè kinh doanh).

- Quá trình sản xuất chế biến.

Tổ chức quá trình sản xuất trồng trọt bao gồm các khâu công việc: cày bừa làm đất, trồng mới, cày xới, chăm sóc, đốn tạo hình (kiến thiết cơ bản), bón phân, phun thuốc trừ sâu, làm cỏ, hái chè, đốn chè, tủ rác... (chè kinh doanh).

Tổ chức quá trình chế biến gồm có: phân loại, làm ráo nước, sạch rác, sao, vò, sấy chè, đóng bao, bảo quản chè sơ chế (phương pháp sản xuất chè xanh).

Dưới đây là một số vấn đề về quá trình sản xuất trồng trọt:

 a) Sử dụng cơ giới hóa:

Mấy năm lại đây ta đã chú trọng đẩy mạnh cơ giới hóa làm đất trồng mới, đồng thời thí nghiệm cơ giới hóa các công việc cày xới chăm sóc giữa hai hàng chè. Máy kéo ĐT-54A và ĐT-75 được sử dụng có kết quả tốt trên 5 loại công việc: san ủi đất, cày, bừa, rạch hàng, làm đường. Làm 1ha đất trồng chè mới hết 23 giờ máy (23 giờ máy giảm được 635 công) và 95 công thủ công, chi phí nhiên liệu 283 đồng.

Máy kéo bánh xích ĐT-54A và ĐT-57 có thể cày trên đồi dốc 15 - 20o.

Theo tài liệu của viện công cụ và cơ giới hóa nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp) ta thấy công làm và trồng 1 ha đất trồng như sau:

Cày bừa chăm sóc, xới xáo, làm cỏ giữa hai hàng chè cũng là những công việc nặng nhọc và tốn nhiều công sức, nhất là với chè kiến thiết cơ bản.

Dùng máy kéo công nông (8 - 12 mã lực) với điều kiện phải có bao chắn bảo vệ cành chè và máy kéo 2 bánh Satoh (K-170 M, 8 mã lực) có thể phay đất, xới xáo, diệt cỏ giữa hai hàng chè (khoảng cách 1,5m) hoặc cày rạch để bón phân, phun thuốc. Tuy nhiên 2 loại này nói chung công suất nhỏ, chưa đảm bảo độ sâu mong muốn, nhất là nơi đất cứng. Với những nương chè có khoảng cách hàng 1,70m - 1,80m có thể dùng máy kéo TL - 30A, TL - 45 làm việc tốt hơn, đảm bảo độ sâu và kết hợp được nhiều công việc trong và ngoài hàng chè như cày bừa, phay đất, rạch hàng sâu, phun thuốc, bơm nước, san ủi, hay đào hố để trồng cây. Nói chung khi mặt tán chè lớn, dù có bao chắn bảo vệ cành vẫn có hạn chế mức độ sử dụng các loại máy kéo này.

Có thể tham khảo quy trình mẫu về sử dụng máy kéo cỡ trung TL-30A cho chè có khoảng cách hàng 1,75m.

Công việc

Bậc việc

Định mức (công/ha)

Công người

Công máy

Công gia súc

I - Chuẩn bị đất

1) Cày bừa 2 lần bằng máy

2) Thiết kế lô trồng và dọn gốc cây

3) Vận chuyển phân hữu cơ (ôtô 30t/ha)

4) Chuyển rải phân vô cơ và hữu cơ

II - Trồng

5) Lấy cọc, cắm cọc, rải vôi để rạch hàng

6) Rạch hàng bằng máy

7) Chuyển rải phân vào hàng

8) Đảo phân sửa hàng để trồng

9) Bóc và chọn hạt giống

10) Bảo quản và xử lý hạt giống

11) Dăng dây, đặt và lấp hạt

12) Cắt rác (350kg/công)

13) Lấp đất, tủ rác 2 bên

 

 

Cộng

 

 

3

3

3

 

 

 

3

3

 

2

3

2

3

2

11

 

5

4

2

80

 

 

10

20

 

14

1,5

10

16

1,5

3,5

 

1,5

2,0

 

0,3

0,3

0,5

 

 

 

 

5

 

 

 

 

 

 

 

 

5

3,8

5,5

 b) Tổ chức chăm sóc chè kinh doanh:

Chăm sóc chè là những biện pháp kỹ thuật rất quan trọng, bao gồm các công việc: làm cỏ, bón phân, phun thuốc trừ sâu... Đây cũng là những công việc nặng nhọc và cần kỹ thuật tốn nhiều công lao động (30 - 40% tổng số công).

Tổ chức chăm sóc chè cần chú ý:

- Xây dựng lịch công tác và xác định tiêu chuẩn kỹ thuật từng công việc.

- Điều chỉnh hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật phù hợp với điều kiện cụ thể theo mùa vụ.

- Chỉ đạo thực hiện cần quán triệt phương châm "kịp thời, tập trung dứt điểm"

 Bảng 29

Công việc

Yêu cầu kỹ thuật và thời gian

Năng suất thực tế (ha/giờ)

Chi phí nhiên liệu (kg/ha)

Công điều khiển máy (giờ)

Lao động thủ công (công)

Vụ đông xuân

 

 

 

 

 

- Làm thoáng đất giữ ẩm

Tháng 11 phay 10cm

0,70

4,00

1,4

 

- Cày rạch

25 cm

0,66

4,25

1,5

 

- Phay lấp cành

Tháng 1

0,50

5,70

2,0

 

- Xới cỏ gốc

Tháng 2, 3

 

 

 

20

- Phay trừ cỏ xuân vụ hè thu

Tháng 4, 5

0,50

5,70

2,0

 

- Đánh cây dại

 

 

 

 

10

- Phun thuốc trừ sâu kết hợp trừ cỏ

10 lần

0,20

14,30

5,0

5

- Bón phân vô cơ 2 lần

phay 1 lần

0,50

5,70

2,0

2

39,65

13,9

37

      - Có kế hoạch và chuẩn bị đầy đủ công cụ vật tư lao động.

- Cải tiến quy trình, hợp lý hóa các quá trình lao động sản xuất.

Điều thể hiện rõ nhất hiện nay trong các cơ sở trồng chè là kết hợp hoạt động đồng thời nhiều khâu kỹ thuật, làm một việc có tác dụng đến nhiều việc và cải tiến các thao tác kỹ thuật. Ví dụ: cày chăm sóc, giữa hai àhng chè kết hợp với bón phân: xới xáo, diệt cỏ kết hợp với vùi cây làm phân.

Thay lối phun thuốc trừ sâu phân tán, theo thời gian và diện tích hái chè của từng tổ, bằng cách phun tập trung theo lối cuốn chiếu, phun gọn từng vùng. Hoặc là kết hợp với màng lưới dự tính dự báo phát hiện nơi có sâu bệnh xuất hiện để tập trung phun diệt kịp thời.

 c) Tổ chức hái chè và giao nộp sản phẩm:

Trong 1 năm cây chè cho thu nhiều lứa và kéo dài khoảng 9 - 10 tháng. Hái chè chủ yếu vẫn bằng sự thành thạo của 2 bàn tay, công cụ chưa phải là yếu tố tác động trực tiếp. Công hái chè thường chiếm 60 - 70% tổng số công. Tổ chức tốt việc hái chè có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Có thể nói, mấu chốt của công tác tổ chức hái chè là làm sao tăng được ngày công giờ công và năng suất lao động. Có nhiều cách giải quyết vấn đề này:

- Trước hết năng suất hái chè phụ thuộc chủ yếu vào 2 nhân tố: trình độ thành thạo của người hái và mật độ búp chè cần hái bình quân trên 1m2 mặt tán. Hai nhân tố này quan hệ với nhau không theo tỷ lệ tương ứng.

Nói chung, trên 1m2 số búp càng tăng thì năng suất hái tăng lên và người hái khá, hái nhiều hơn người trung bình. Song dưới mức 50 búp/m2 thì chênh lệch năng suất hái giữa người khá và trung bình không lớn bằng khi hái chè có mức độ từ 50 - 120 búp/m2 mặt tán. Như vậy, có thể bố trí người khá hái trên lô có búp thấp hơn, thì có lợi cho cả 2 loại lao động.

- Tổ chức cho 2 người cùng hái một hàng và riêng mỗi người mỗi hàng cũng có năng suất hái khác nhau: xác định số hàng cho mỗi người hái để giảm bớt chiều dài đường đi và thời gian đi lại, tăng giờ đứng hái, cũng nâng cao mức hái.

- Có thể tổ chức chuyên khâu hẹp hơn, 6 - 10 người chuyên hái, có 1 người chuyên đi thu vận chuyển về lán và cùng đội giao bán, cũng tạo ra điều kiện tăng giờ, hái được nhiều chè lại đỡ nặng nhọc.

III. TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG TRONG NGÀNH CHÈ

1) Tổ chức lao động:

Muốn tổ chức và quản lý tốt việc sản xuất chè phải tổ chức và quản lý tốt lao động.Trong xí nghiệp cần tổ chức ra các đội chuyên canh chè. Mỗi đội được phân công phụ trách một số diện tích, có trang bị một số công cụ và lao động cần thiết, tiến hành sản xuất theo kế hoạch và sự chỉ đạo thống nhất của xí nghiệp.

Quy mô đội chuyên canh chè lớn hay bé tùy thuộc:

- Mức độ tập trung của khu vực trồng chè

- Hình thức xí nghiệp nông trường quốc doanh hay hợp tác xã.

- Trình độ quản lý và kỹ thuật của cán bộ công nhân xã viên, cũng như mức độ sử dụng cơ khí.

Thực tiễn sản xuất ở nông trường quốc doanh cho thấy quy mô đội nên có từ 100 - 150 ha chè với 200 - 300 lao động, ở hợp tác xã thường nhỏ hơn, khoảng 45 - 50 ha với 80 - 120 lao động. Trong các nông trường quốc doanh cần tổ chức các khu dân cư theo hướng tập trung, nhằm tạo điều kiện tăng cường cơ sở phúc lợi tập thể tổ chức cải thiện đời sống cả vật chất và tinh thần.

Đội chuyên canh chè thường được chia ra các tổ sản xuất hay tổ lao động chuyên việc. Nhiệm vụ của tổ là lao động sản xuất theo yêu cầu kỹ thuật và khối lượng công việc được phân công từ đầu, hoặc có kết hợp thêm quản lý một số diện tích chè. Mỗi tổ có từ 12 - 15 người, có một tổ trưởng chăm lo sản xuất và quản lý tổ theo sự chỉ đạo trực tiếp sản xuất, được phụ cấp trách nhiệm 3 - 7% lương.

Nói chung, tổ chức lao động phải phù hợp với yêu cầu sản xuất cụ thể, song phải quản lý chặt chẽ có lãnh đạo và chỉ đạo sâu sát của đội. Cán bộ công nhân và xã viên cần có kế hoạch bồi dưỡng các mặt chính trị, văn hóa, kỹ thuật và quản lý để có năng lực sản xuất và quản lý cây chè có hiệu quả. Những công nhân mới tuyển vào sản xuất ngành chè cần nhanh chóng bồi dưỡng các phương pháp sản xuất và rèn luyện tay nghề.

2) Định mức lao động:

Sản xuất chè có nhiều công việc, gồm nhiều quá trình lao động trong những điều kiện sản xuất, tuổi chè, đất đai... khác nhau nên có nhiều mức và việc định mức khá phức tạp.

Ví dụ: dưới đây là một số định mức lao động chung do Vụ lao động và tiền lương ban hành năm 1973 dùng cho các loại chè.

Mỗi công việc thường có mức lao động bình quân chung cả năm và từng tháng, mức của xí nghiệp và của đội chuyên canh chè. Đó là căn cứ để lập kế hoạch về chi phí lao động tiền lương và khoán. Trong quá trình tiến hành lao động sản xuất, cần được cụ thể hóa ra các mức cho phù hợp đếu kiện cụ thể nơi đó, lúc đó, nhưng bình quân trở lại phải ngang với mức bình quân chung.

 

Loại chè

Định mức công

Công người

Công máy

Công gia súc

+ Chè trồng mới

+ Chè kiến thiết cơ bản

- Loại 1 tuổi, năng suất 4 tạ/ha

- Loại 2 - 3 tuổi, năng suất 20 - 30 tạ/ha

+ Chè sản xuất kinh doanh (4 - 6 tuổi, năng suất 40 tạ/ha)

- Hái tay và không dùng dalapon trừ cỏ

- Hái tay và dùng dalapon trừ cỏ

91

 

148

211

 

 

337

309

3,8

 

1,5

1,5

 

 

2,5

2,5

5,5

 

11

23

 

 

15

15

 Ví dụ: mức cày chăm sóc là 2 công/ha, những lô có tuổi chè thấp khoảng cách giữa hai tán chè lớn thì tăng lên 2,5 - 3 công/ha, còn chè nhiều tuổi gần giao tán chỉ cần cày 2 đường thì mức rút xuống 1,5 - 1,7 công/ha. Mức công bừa, làm cỏ cũng được giảm xuống theo sự khép kín của tán chè. Ngược lại, năng suất chè tăng lên thì công hái chè trên 1 ha cũng tăng lên.

Cần có mức lao động đúng, song quan trọng hơn là tổ chức đưa mức đó vào sản xuất, làm cơ sở để tổ chức quản lý sản xuất, quản lý và trả công lao động. Quá trình cải tiến công tác quản lý sẽ hoàn chỉnh đúng hệ thống mức.

3) Trả công trong ngành chè:

Trả công là phân phối sản phẩm tiêu dùng cho người lao động. Hình thức trả công theo thời gian ít tác dụng. Phổ biến hiện nay là áp dụng hình thức trả công theo sản phẩm.

hợp tác xã có thể thực hiện chế độ khoán việc cho nhóm và người lao động khi làm từng công việc. Đồng thời cần thực hiện tốt chế độ khoán sản phẩm cuối cùng cho đội trồng chè. Có như vậy gắn liền được trách nhiệm hàng ngày với cả quá trình trách nhiệm riêng với kết quả sản xuất chung của đội, của hợp tác xã.

Ở nông trường quốc doanh từ lâu đã thực hiện chế độ lương sản phẩm. Lương sản phẩm có hai mức độ là: trả trực tiếp theo khối lượng công việc và theo sản phẩm cuối cùng.

Nông trường quốc doanh Mộc Châu và một số nông trường quốc doanh khác trong 3 - 4 năm lại đây đã áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm cuối cùng cho các đội trồng chè. Cơ sở chủ yếu là dựa vào chỉ tiêu kế hoạch sản xuất hàng năm nông trường giao và mức độ thực hiện kế hoạch của đội để thanh toán lương và tiền thưởng phạt. Những chỉ tiêu chủ yếu để khoán sản phẩm cuối cùng là:

- Số lượng sản phẩm và giá trị sản phẩm chè sản xuất ra trong năm.

- Tổng số tiền lương sản xuất chè trong năm.

- Giá thành đơn vị sản phẩm chè.

Chè búp tươi có nhiều loại A, B, C, D... giá trị sử dụng và giá bán mỗi loại không giống nhau. Do đó đồng thời phải giao cả hai chỉ tiêu: sản lượng và giá trị sản phẩm. Có như vậy đội mới quan tâm đến sản xuất, thâm canh chè để có nhiều chè và thu hái đúng quy cách, tăng phẩm cấp A, B, tăng giá bán, chế biến ra được nhiều sản phẩm tốt.

Quỹ tiền lương cho đội dựa trên cơ sở định mức lao động và tiền lương bậc công việc, nông trường giao cho đội theo kế hoạch các tháng trong năm. Đội được sử dụng số tiền lương theo kế hoạch và kết quả sản xuất hàng tháng (nông trường đảm bảo kiểm tra nghiệm thu về số lượng và chất lượng kỹ thuật).

Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu tổng hợp, tùy mức độ phấn đấu mà xác định mức tiền thưởng phạt đối với đội. Tổ chức thực hiện tốt chỉ tiêu số lượng và giá trị sản phẩm là quan trọng nhất, là cơ sở chủ yếu để thanh toán tiền lương "tháng 13" và các loại tiền thưởng khác.

IV. PHƯƠNG HƯỚNG PHẤN ĐẤU HẠ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG SẢN XUẤT CHÈ

Hướng phấn đấu chung của ngành chè là:

- Sản xuất ra được nhiều chè có chất lượng cao cung cấp cho chế biến để có nhiều sản phẩm với chất lượng tốt phục vụ nhu cầu tiêu cùng và xuất khẩu.

- Đảm bảo chi phí hợp lý, hạ giá thành sản phẩm, tăng mức lãi và thu nhập cho xí nghiệp, không ngừng cải thiện đời sống cho người lao động.

- Giá thành là một chỉ tiêu tổng hợp quan trọng chi phối đến lợi nhuận của xí nghiệp. Hạ giá thành sản phẩm là một yêu cầu thường xuyên cần hướng mọi cố gắng của xí nghiệp nhằm phấn đấu thực hiện. Muốn hạ giá thành sản phẩm cần phải chú ý một số điểm sau đây:

 1) Tăng năng suất và phẩm cấp chè, tăng sản lượng và tận thu sử dụng tốt chè cuối vụ:

Giữa năng suất với phẩm cấp chè có mối quan hệ không hoàn toàn đồng nhất. Năng suất sản lượng tăng lên do hái nhiều chè C, D, E có thể làm giảm phẩm cấp chè và ngược lại tăng phẩm cấp do hái nhiều chè A, B có thể làm giảm năng suất. Tuy nhiên khi hái nhiều chè A, B thì trước hết là tăng được nhiều lứa hái trong năm, kết hợp với việc thu hết búp mù xòe, không bỏ sót, không hái ép..., có thể vừa tăng được phẩm cấp vừa tăng được năng suất chè. Điều đó có quan hệ đến việc huy động sử dụng lao động và biện pháp chỉ đạo và kỹ thuật hái.

Có nhiều biện pháp làm tăng năng suất phẩm cấp:

- Xác định được đất và vùng trồng thích hợp.

- Chọn được những giống chè tốt có năng suất cao.

- Thâm canh ngay từ đầu, thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các biện pháp kỹ thuật.

- Tăng lứa hái, hái đúng quy cách.

- Vận dụng tốt các loại chè có thể thu hái. 

2) Đề ra và chỉ đạo thực hiện tốt các biện pháp và quy trình kỹ thuật trồng trọt phù hợp với điều kiện cụ thể:

- Xây dựng và kịp thời bổ sung những biện pháp kỹ thuật, tiến bộ kỹ thuật.

- Xây dựng quy trình sản xuất tiến bộ và có thể thực hiện được.

- Mức kỹ thuật cần được điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu, đúng lúc, đúng đối tượng và khả năng của xí nghiệp.

Có quy trình kỹ thuật và biện pháp đúng là cơ sở và tiền lệ. Điều quyết định trong thực tế là tổ chức thực hiện để vừa đảm bảo kỹ thuật, vừa nâng cao năng suất lao động, có chỉ đạo tập trung dứt điểm từng công việc lại đồng thời đảm bảo sự hoạt động đồng bộ trong toàn xí nghiệp.

 3) Quản lý tốt vật tư kỹ thuật:

Thuốc trừ sâu, phân bón, quang sọt, cày bừa v.v... cần đảm bảo chất lượng tốt không để hư hỏng, mất mát. Cần xác định đủ số lượng và thể loại cần thiết không nên mua sắm quá nhiều ứ đọng vốn tốn kho tàng và công chăm sóc bảo quản, nhưng cũng không nên quá thiếu mất cân đối, không đảm bảo tính kịp thời.

Tùy loại mà có sự phân công sử dụng và bảo quản thích hợp. Những công cụ lớn quan trọng, dao kéo đốn chè sử dụng có thời vụ... nên để tập trung, khi dùng có biên nhận và trả rõ ràng, có quy định niên hạn sử dụng, mất phải bồi thường; quang sọt, cuốc, cày bừa... sử dụng hàng ngày thường phân cho đội quản lý. Một số nơi quy định công suất sử dụng và giao cho cá nhân mua sắm (hoặc xí nghiệp trang bị), bảo quản sử dụng, ví dụ:

- Quang sọt hái chè 10 đ dùng để hái 5 tấn chè: tương ứng là 10đ/5.000kg = 0,002đ/kg chè. Người hái chè tự sắm và dùng, thu dần tiền quang sọt theo lượng chè hái được. Quản lý tốt lâu hỏng thì hái được nhiều chè, thu nhiều tiền mà không phải sắm lại.

- Cuốc bàn làm cỏ 3đ/50ha = 0,06đ/ha.

- Cày bừa chăm sóc thì không tính theo diện tích (vì mức cày khác nhau trên các loại tuổi chè) mà tính theo số định múc lao động cụ thể là theo tiền lương đi cày bừa v.v...

Cách quản lý này thiết thực hơn, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động.

 4) Thực hiện tốt các biện pháp để nâng cao năng suất lao động trong ngành chè:

Ngoài những biện pháp chung để nâng cao năng suất lao động cần chú ý:

- Cải tiến công cụ sản xuất, mở rộng việc sử dụng cơ giới hóa.

- Hợp lý hóa các quy trình sản xuất trong phạm vi cho phép.

- Hợp lý hóa các quá trình lao động sản xuất, kết hợp làm một việc có tác động đến nhiều khâu, chia nhỏ các công đoạn sản xuất, thực hiện chuyên môn hóa cao và hợp tác.

- Cải tiến thao tác và phương pháp làm việc.

- Bồi dưỡng trình độ kỹ thuật, kỹ năng và ý thức trách nhiệm cho người lao động.

- Cải thiện đời sống và áp dụng các hình thức tiền lương tiền thưởng đúng mức để gây được tác dụng thúc đẩy phong trào thi đua lao động sản xuất.

Tính bình quân 3 năm, 1 hecta chè sản xuất kinh doanh (9 - 15 tuổi) đạt sản lượng bình quân 7198 kg búp tươi với phẩm cấp A+B là 92%, giá thành bình quân 1kg búp tươi là 0,466đ cần 520 công người, 81 công bò, 697 kg đạm sunfat, 201 kg kali clorua, 10 tấn phân hữu cơ (rác, phân bò), 17 lít thuốc vofatoc và 8 kg thuốc trừ cỏ. Công lao động về hái chè là 60,2%, trừ cỏ dại 16,2%, bón phân 9,8%, đốn chè 8,4%, trừ sâu bệnh 5,4%. Một công lao động làm ra 13,8 kg búp tươi. Muốn có 100kg búp tươi cần 7,27 công.

Tóm lại, hạ giá thành sản phẩm nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành sản xuất chè là phải thực hiện tổng hợp nhiều biện pháp kinh tế kỹ thuật là cả quá trình phấn đấu liên tục của toàn bộ xí nghiệp.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

+ Ali Zatde M.A. Sinh lý cây chè. Viện hàm lâm khoa học Azecbaijan. Bacu, 1964.

+ Bakhơtatze K.E. Sinh học, chọn tạo và nhân giống cây chè, Maxcơva, 1948.

+ Bakhơtatze K.E. Cơ sở sinh học của cây chè. Tbilixi, 1971.

+ Giginhêisvili P.L. Cây chè ở Việt Nam. Tạp chí cây trồng ở nhiệt đới, 2-1967.

+ Giginhêisvili P.L. Nghề trồng cây lâu năm ở Việt Nam. Tbilixi, 1970.

+ Gôtrôlasvili M.M. Zandastanhisvili L.G. Cơ sở sinh học của cây chè ở Gruzi. Tbilixi, 1963.

+ Đjêmukhatze K.M. Trồng trọt và sản xuất chè ở nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Maxcơva, 1961.

+ Đjêmukhatze K.M. Cây chè ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Maxcơva, 1976.

+ Kantaria G.I. Nghề trồng chè Tbilixi, 1960.

+ Kvaraxkhêlia T.K: Aculôva T.A. Kantaria G.I, Menagarisvili A.Đ. Nghề trồng chè Maxcơva, 1950.

+ Palarava D.T. Nghề trồng chè ở một số tỉnh của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tạp chí của Viện nghiên cứu chè và cây á nhiệt đới toàn Liên Xô. Số 2-1957.

+ Piaxkhalaisvili C.X. Cơ sở khoa học của việc khai thảo nương chè. Luận án tiến sĩ nông học Maxcơva, 1969.

+ Bziava M.L. Phân bón cho cây trồng á nhiệt đới. Tbilixi, 1973.

+ Boculrava M.A. Sinh hóa chè và sản xuất chè. Maxcơva, 1958.

+ Nguyễn Ngọc Kinh. Nghiên cứu ảnh hưởng của các biện pháp đốn và tưới nước đến sinh trưởng, phát dục và sản lượng của cây chè trong điều kiện của nước Cộng hòa Apkhazia.

Luận án phó tiến sĩ nông học, Xukhumi, 1973.

+ Trang Vãn Phương. Cây chè. Maxcơva,1959.

+ Trường Đại học Lômônôxốp - Sinh lý cây trồng nông nghiệp. Tập 9 - Sinh lý cây ăn quả và chè. Nhà xuất bản Đại học - Maxcơva, 1970.

+ Eaen T. Cây chè - Luân Đôn, 1958.

+ Elliott E.C. Whiteheahd F.T. Trồng chè ở Xrilanca, 1960.

+ Othieno C.O. Tưới nước cho chè. Tạp chí Viện nghiên cứu chè Đông Phi, 1968,9 (2).

+ Sen. AR. Asim K. BisWac. Một số kỹ thuật thí nghiệm về cây chè ở Đông Bắc Ấn Độ. Tạp chí nông nghiệp thực nghiệm 1966. 2 (2).

+ Trà thụ sinh vật học. Nhà xuất bản khoa học Bắc Kinh, 1957.

+ Trà thụ sinh vật hóa học. Nhà xuất bản Nhân dân Chiết Giang, 1962.

+ Trà diệp kiểm nghiệm học. Nhà xuất bản Nông nghiệp Bắc Kinh, 1961.

+ Trà tác học.

+ Chế trà học. Nhà xuất bản Nhân dân Chiết Giang, 1961.

+ Chọn và nhân giống chè. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 1961.

+ Báo cáo tình hình sản xuất chè hàng năm. Vụ trồng trọt. Bộ Nông nghiệp.

+ Quy trình kỹ thuật trồng chè. Vụ trồng trọt. Bộ Nông nghiệp.

+ Một số tạp chí:

- Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp.

- Tập san nghiên cứu kinh tế.

- Thông tin khoa học và kỹ thuật cây công nghiệp, cây ăn quả và cây làm thuốc.

- Khoa học về cây chè (tiếng Trung Quốc).

- Cây trồng á nhiệt đới (tiếng Nga).

  Trang trước Mục lục Trang sau