Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ VII, tình hình kinh tế-xã hội có nhiều chuyển biến tích cực với hầu hết các chỉ tiêu kinh tế-xã hội đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Nền kinh tế đi dần vào thế ổn định và tăng trưởng khá ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực; nhiều lĩnh vực xã hội có chuyển biến tích cực, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện, nâng lên; tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế-xã hội Lâm Đồng trong những năm qua nhìn chung chưa vững chắc, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh sẵn có của địa phương. Nền kinh tế của Lâm Đồng vẫn còn phụ thuộc lớn vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, trong khi sản xuất nông nghiệp của tỉnh chưa ổn định, chịu ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện thời tiết và giá cả các loại nông sản trên thị trường, ảnh hưởng đến khả năng phát triển. Mặt khác hiệu quả sản xuất kinh doanh nông nghiệp hiện còn thấp, chưa tạo ra sản phẩm hàng hóa chất lượng cao để cạnh tranh trên thị trường; cơ cấu trong từng ngành, lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp chuyển biến chậm và chưa vững chắc. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn chậm chuyển biến, đầu tư công nghệ sau thu hoạch chưa được chú trọng, vì vậy hàng hóa nông sản chủ yếu tiêu thụ ở dạng nguyên liệu thô, chưa qua công nghiệp chế biến, giá trị thấp. Ngành công nghiệp tăng trưởng chưa ổn định, mức tăng trưởng giữa các khu vực không đồng đều; giá trị ngành công nghiệp-xây dựng chiếm tỷ trọng nhỏ trong GDP; vai trò của công nghiệp đối với nông nghiệp và giải quyết việc làm còn hạn chế. Các thế mạnh về tài nguyên như khoáng sản, thuỷ điện chưa được đưa vào khai thác để phát triển; chưa tạo được bước đột phá mới trong phát triển công nghiệp. Du lịch, dịch vụ chiếm tỷ trọng trên 30% trong tổng GDP, nhưng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh, sản phẩm du lịch còn đơn điệu, nghèo nàn, chất lượng hoạt động dịch vụ chưa cao; lượng khách đến tỉnh tham quan nghỉ dưỡng và ngày khách lưu trú bình quân thấp. Lâm Đồng vẫn còn là tỉnh nghèo so với các tỉnh trong khu vực cũng như trong cả nước.
Để phát huy những thành tựu đạt được trong những năm đổi mới nói chung và thời kỳ 2001-2005 nói riêng, tiếp tục phát triển kinh tế-xã hội trong những năm tiếp theo, đặc biệt là thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 13-14% thời kỳ 2006-2010 do Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ VIII đã đề ra trên cơ sở khai thác có hiệu qủa tiềm năng và lợi thế so sánh về khí hậu, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tận dụng tốt cơ hội, khắc phục khó khăn thúc đẩy nền kinh tế Lâm Đồng phát triển ổn định, lên một tầm cao mới, góp phần cải thiện đời sống các tầng lớp dân cư . Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế-xã hội qua 5 năm, thời kỳ 2001-2005 về những thành tựu đạt được và những tồn tại, hạn chế cần khắc phục, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị, giải pháp sau:
Để phát huy những thành tựu đạt được trong những năm đổi mới nói chung và thời kỳ 2001-2005 nói riêng, tiếp tục phát triển kinh tế-xã hội trong những năm tiếp theo, đặc biệt là thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 13-14% thời kỳ 2006-2010 do Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ VIII đã đề ra trên cơ sở khai thác có hiệu qủa tiềm năng và lợi thế so sánh về khí hậu, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tận dụng tốt cơ hội, khắc phục khó khăn thúc đẩy nền kinh tế Lâm Đồng phát triển ổn định, lên một tầm cao mới, góp phần cải thiện đời sống các tầng lớp dân cư . Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế-xã hội qua 5 năm, thời kỳ 2001-2005 về những thành tựu đạt được và những tồn tại, hạn chế cần khắc phục, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị, giải pháp sau:
A) Nhóm giải pháp chủ yếu trước mắt:
1. Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh theo hướng tăng tốc, đột phá mà Đại hội VIII, tỉnh Đảng bộ Lâm Đồng đã đề ra.
Tập trung chỉ đạo thực hiện một số giải ph¸p then chốt làm chuyển biến mạnh để nâng cao sự tăng trưởng và hiệu quả của nền kinh tế cho những năm tới. Trước hết là tạo mọi điều kiện thuận lợi về cung cấp các yếu tố đầu vào và giải quyết đầu ra, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý ở các cơ sở sản xuất để khai th¸c cã hiệu quả c¸c nguồn lực sản xuất kinh doanh hiện có nhằm giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tạo ra thu nhập cao nhất trong từng cơ sở sản xuất kinh doanh, trong từng ngành kinh tế và toàn bộ nền kinh tế để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng; chú ý uu tiên cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh có hiệu quả, các sản phẩm dang có thị trường tiêu thụ; các doanh nghiệp, các ngành, lĩnh vực, địa bàn và các sản phẩm tạo ra giá trị sản xuất và thu nhập lớn.
Tiến hành rà soát lại năng lực sản xuất kinh doanh hiện có ở các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế, trước hết là về khả năng thị trường, về hệ số sử dụng công suất máy móc, thiết bị và khả năng tăng năng lực sản xuất kinh doanh, nhu cầu sử dụng vốn lưu động và vốn đầu tư để nâng năng lực sản xuất sản xuất trong những năm tới. Từ đó xây dựng đề án nêu rõ từng giải pháp cụ thể về giải quyết vốn vay, mở rộng thị trường và đầu tư đỗi mới công nghệ. Đồng thời, chỉ đạo các ngành liên quan tính toán về chỉ tiêu đầu tư cụ thể cho từng ngành, từng vùng ... từ đó có phương án huy động vốn đầu tư phát triển cho những năm tới ở mức độ cao nhất. Phải điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tăng thêm đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, nhất là ngành có lợi thế so sánh như khai thác, chế biến khoáng sản, phát triển thuỷ điện gắn với thuỷ lợi và du lịch sinh thái ... và đầu tư vào các hoạt động du lịch, dịch vụ với quy mô lớn để tạo ra sự đột phá về tăng GDP và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm tới.
2. Nâng cao hiệu qủa nền kinh tế theo hướng tăng sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất tại tỉnh; trước hết là các ngành kinh tế động lực, các doanh nghiệp lớn, các đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu qủa .. Phải có lộ trình và bước đi cụ thể về đổi mới công nghệ sản xuất kinh doanh, phương pháp quản lý phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, đổi mới giống cây trồng, vật nuôi.
3. Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng khu vực công nghiệp-xây dựng và khu vực dịch vụ trong nền kinh tế để từng bước nâng dần tỷ trọng các khu vực này trong GDP, giảm dần tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp nhằm giảm bớt sự lệ thuộc của nền kinh tế vào sản xuất nông nghiệp như những năm qua. Có thực hiện như vậy, thì nền kinh tế Lâm Đồng mới tăng trưởng mới ổn định và bền vững; cơ cấu kinh tế chuyển hướng tích cực.
Trước mắt cần tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu qủa các chương trình trọng tâm và công trình trọng điểm đã được xác định; bổ sung chương trình trọng tâm về quy hoạch mở rộng các thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ để phát triển đô thị, đáp ứng nhu cầu nhà ở của nhân dân và góp phần tăng thu ngân sách. Mặt khác, ở tất cả các ngành, các huyện, thị xã, thành phố cũng phải xác định chương trình trọng tâm và công trình trọng điểm để tập trung mọi nguồn lực tổ chức thực hiện nhằm tạo bước đột phá về kinh tế - xã hội.
4. Phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường: đẩy mạnh việc đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước và kinh tế tập thể theo hướng đẩy nhanh t tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp, khuyến khích phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại gia đình, kinh tế hợp tác; khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khác phát triển. Đồng thời xác lập môi trường bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế; khuyến khích việc thành lập tổ chức hiệp hội ngành nghề để tạo sự liên kết và hỗ trợ nhau trong xây dựng và phát triển ngành nghề. Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế với nhau, giữa doanh nghiệp với hộ kinh tế gia dình để mở rộng sản xuất, tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hóa. Tăng cường hợp tác liên tỉnh, phối hợp giữa tỉnh với các Bộ ngành Trung ương từ khâu nghiên cứu, hình thành dự án, phù hợp với quy hoạch phát triển ngành và lãnh thổ.
B) Nhóm giải pháp cụ thể:
1. Trong nông, lâm nghiệp và nông thôn:
Đẩy nhanh việc thực hiện chương trình chuyển đổi cơ cấu giống các loại cây chè, cà phê, điều, dâu tằm. rau... để nâng cao chất lượng và gía trị các nông sản hàng hóa, phù hợp với yêu cầu phục vụ xuất khẩu nhằm tăng nhanh hiệu qủa sản xuất hàng hoá trên một đơn vị diện tích, nâng cao thu nhập của người sản xuất. Thực hiện tốt chương trình hỗ trợ phát triển chăn nuôi bò sữa, bò thịt cho người sản xuất nhằm phát triển nhanh đàn bò sữa để nâng cao gía trị ngành chăn nuôi trong sản xuất nông nghiệp.
Triển khai nhanh chương trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Đầy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đặc biệt là các giống mới, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến, với thị trường tiêu thụ nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Tăng cường hơn nữa công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và đưa cán bộ khoa học kỹ thuật xuống cơ sở giúp đỡ nông dân phương cánh làm ăn thích hợp, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
Phát triển đa dạng các ngành nghề gắn liền với việc tiêu thụ hàng hóa cho nông dân. Tiếp tục thực hiện chương trình kiên cố hóa kênh mương để nâng cao năng lực tưới của các công trình đã đầu tư.
Tiếp tục đẩy mạnh củng cố, phát triển và xây dựng mới các vùng chuyên canh về cây công nghiệp dài ngày theo định hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi của tỉnh đã đề ra, trên cơ sở phát triển mạnh cây công nghiệp dài ngày theo hướng sau:
- Đối với cây chè: hỗ trợ giống để cải tạo và trồng mới trên diện tích hiện có hoặc diện tích sản xuất cây trồng khác kém hiệu qủa.
- Cây cà phê : ổn định diện tích hiện có, không mở rộng thêm diện tích mà thực hiện thâm canh, tăng năng suất và khuyến khích thay đổi cơ cấu giống cà phê năng suất, chất lượng thấp sang giống cà phê có năng suất và chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng trong nước cũng như quốc tế ở các địa phương, các vùng chuyên canh, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa.
- Cây dâu tằm: Tiếp tục ổn định và mở rộng diện tích kinh doanh; áp dụng giống mới ở những vùng phù hợp để phát triển.
- Cây điều : Chú trọng việc thay đổi giống, đầu tư thâm canh tăng năng suất, nâng cao hiệu qủa sản xuất và chất lượng vườn cây.
Đối với các loại cây ngắn ngày như hoa, rau ... chú trọng việc đổi mới giống cây trồng, tăng cường đầu tư sản xuất rau sạch, tiếp tục thực hiện có hiệu qủa việc khuyến nông, tiêu thụ sản phẩm .
Trong lâm nghiệp cần tiếp tục xã hội hóa nghề rừng, có chính sách để thu hút, huy động nguồn vốn, tham gia việc trồng rừng, thực hiện khoanh nuôi tái sinh và quản lý bảo vệ rừng từ các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh.
Để thực hiện phát triển nông, lâm nghiệp cần thực hiện tốt một số cơ chế chính sách cụ thể sau:
* Hỗ trợ đầu tư thâm canh cây cà phê, chè cho nông dân thông qua hình thức trợ gía phân bón từ 10-15% gía mua.
* Hỗ trợ một phần chi phí cho tưới cây công nghiệp dài ngày như cà phê, chè .. khi có hạn hán xảy ra.
* Hỗ trợ một phần kinh phí cho các đơn vị sản suất kinh doanh rau, hoa. Tiến hành công tác xúc tiến thương mại để tìm kiếm thị trường tiêu thụ phục vụ cho xuất khẩu và nội tiêu.
* Hỗ trợ từ nguồn ngân sách để thực hiện chương trình công nghệ cao trong ngành nông nghiệp.
2. Trong công nghiệp - xây dựng:
Triển khai thực hiện nhanh chóng chương trình phát triển công nghiệp-TTCN; đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư triển khai các dự án đầu tư. Khắc phục những khó khăn hiện tại để phát triển công nghiệp với tốc độ cao trên cơ sở đầu tư xây dựng các nhà máy thuỷ điện, gắn thuỷ điện với thuỷ lợi và phát triển du lịch. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp theo các quy mô khác nhau, chú ý phát triển công nghiệp vừa và nhỏ trong tất cả các lĩnh vực mà nhà nước không cấm, đặc biệt là sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, mặt hàng tiêu dùng và chế biến nông sản xuất khẩu đối với các nguyên liệu có thế mạnh của địa phương. Bằng biện pháp thích hợp để đưa công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến nông sản với quy mô nhỏ vào khu vực nông thôn; khôi phục lại nghề thủ công mỹ nghệ, nghề thổ cẩm trong các làng, bản dân tộc.
Tiếp tục triển khai quy hoạch, đầu tư xây dựng một số điểm công nghiệp trên địa bàn huyện, thị xã, thành phố để tạo điều kiện thuận lợi trong thu hút đầu tư phát triển công nghiệp trong các năm tới.. tập trung phát triển năng lực sản xuất ở các ngành chế biến chè, cà phê, tơ lụa, may đan, sản xuất vật liệu xây dựng .. các sản phẩm có thị trường tiêu thụ và khả năng xuất khẩu.
Tập trung đầu tư thực hiện các công trình trọng điểm theo kế hoạch đã xây dựng. Tiếp tục thực hiện chương trình phát triển cơ sở hạ tầng, tập trung củng cố và nâng cấp các tuyến đường trục chính của tỉnh, quốc lộ 20, quốc lộ 27, quốc lộ 28; phát triển ngành điện, xây dựng đồng bộ các hệ thống và trạm theo các mục tiêu phục vụ sản xuất, tăng cường đầu tư đưa điện về vùng sâu, vùng xa.
Để thực hiện phát triển khu vực công nghiệp-xây dựng cần thực hiện tốt một số cơ chế chính sách sau :
* Hỗ trợ một phần kinh phí cho các đơn vị sản xuất kinh doanh các sản phẩm chủ yếu của tỉnh như chè, điều, lụa, đan thêu, rượi vang, vật liệu chịu lửa, gỗ tinh chế. Tiến hành công tác xúc tiến thương mại để tìm kiếm thị trường tiêu thụ phục vụ cho xuất khẩu và nội tiêu nhằm thúc đẩy các nhóm sản phẩm có mức tăng trưởng cao.
* Đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình trọng điểm của tỉnh để nhằm tăng cầu về sản lượng vật liệu xây dựng.
* Hỗ trợ ngân sách cho công tác triển khai mô hình hỗ trợ giống và kỹ thuật cho công nghệ trồng rau nguyên liệu cho sản xuất rau cấp đông để các nhà máy hiện có có khả năng phát huy hết công suất thiết kế nhằm đưa sản lượng tăng gấp đôi, gấp ba so năm 2005.
* Hỗ trợ để các doanh nghiệp triển khai nhanh các dự án về khai thác phi kim loại như cao lanh, sét, dia-tô-mít, .. thuỷ điện vừa và nhỏ; đồng thời hỗ trợ cho các doanh nghiệp triển khai sản xuất thử nghiệm, khai thác thử nghiệm, thuê chuyên gia về công nghệ ... để giúp các doanh nghiệp tăng mạnh sản lượng các sản phẩm này.
* Hỗ trợ mạnh hơn cho các doanh nghiệp nhà nước thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ-thiết bị nhất là đối với các sản phẩm có thế mạnh của tỉnh.
* Vay vốn tín dụng để thực hiện dứt điểm công tác đền bù giải toả các công trình trọng điểm sau: Khu công nghiệp Lộc Sơn và 2 khu du lịch Hồ tuyền Lâm và Đan Kia- Suối Vàng; đường cao tốc Dầu Giây-Đà Lạt, đường giao thông 723 và thực hiện đầu tư các công trình theo hình thức BT.
3. Khu vực dịch vụ:
Tập trung đầu tư các cơ sở hạ tầng như giao thông, điện, nước đến các khu công nghiệp, du lịch để tạo được lợi thế thu hút các nhà đầu tư trong lĩnh vực du lịch, công nghiệp. Đầu tư nâng cấp các khu vui chơi giải trí hiện có đi đôi với xây dựng các khu du lịch, các điểm và loại hình vui chơi, giải trí mới để tăng khả năng thu hút và lưu giữ du khách; giữ gìn và tôn tạo các khu di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh. Triển khai nhanh quy hoạch cụ thể các điểm du lịch, các điểm danh lam thắng cảnh để tạo thuận lợi thu hút các nhà đầu tư trong và ngòi nước tham gia đầu tư vào các điểm du lịch đã quy hoạch .
Đa dạng hóa các hình thức du lịch như du lịch sinh thái, du lịch nghĩ dưỡng ... để thu hút các đối tượng khách du lịch; đầu tư mới , tôn tạo các khu du lịch trọng điểm, đẩy nhanh đầu tư xây dựng hạ tầng khu du lịch Đan Kia-Suối Vàng và hồ Tuyền Lâm. Tăng cường quảng bá và xúc tiến du lịch ở trong và ngoài tỉnh và nước ngoài, đồng thời tăng cường công tác đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dịch vụ du lịch .
Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất của ngành du lịch. Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển cơ sở lưu trú dạng biệt thự, khách sạn chất lượng cao. Bố trí vốn ngân sách để lập dự án quy hoạch thiết kế các hạng mục công trình trong từng khu du lịch để mời gọi, thu hút đầu tư. Xây dựng hai trung tâm thương mại để phục vụ du khách mua sắm hàng hóa đặc sản, hàng hóa lưu niệm.
Thực hiện các giải pháp nâng cao sức mua của nhân dân, phát triển các chợ nông thôn. Tổ chức các hoạt động thương mại theo hướng tối đa nhu cầu của người tiêu dùng và hỗ trợ phát triển xuất khẩu, tăng cường mở rộng các thị trường tiêu thụ các mặt hàng nông sản. Thực hiện tốt Quyết định 80/2002 của Chính phủ về việc ký kết các hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hóa giữa các doanh nghiệp với nông dân và các tập đoàn sản xuất .
Đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm để tăng kim ngạch xuất khẩu. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các doang nghiệp hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực xuất, nhập khẩu; tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong xuất khẩu, từng bước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu qủa.
Phát triển mạnh các dịch vu bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp luật, khoa học kỹ thuật ...Nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải và độ an toàn trong vận tải hàng hóa cũng như vận tải hành khách trên các phương tiện vận tải công cộng. Tăng cường các biện pháp về đảm bảo an toàn giao thông; xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm luật lệ giao thông để giảm đáng kể số vụ tai nạn giao thông cũng như mức độ thiệt hại trên địa bàn toàn tỉnh .
C) Nhóm giải pháp có tính chiến lược:
Một là : Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị-xã hội . Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và nhiều tỉnh trong nước cho thấy, kinh tế chỉ phát triển một khi giữ được sự ổn định về chính trị-xã hội vì sự ổn định này mới bảo đảm cho chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế không bị gián đoạn; mới tập trung được nhân tài, vật lực cho sự phát triển kinh tế; mới tạo được sự yên tâm cho các nhà đầu tư trong, ngoài tỉnh cũng như từ nước ngoài.
Hai là : Xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế gắn với chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, chuẩn bị cho quá trình hội nhập vào thị trường trong và ngoài nước một cách bình đẳng và hiệu quả; đặc biệt là xây dựng các thương hiệu về rau, hoa, trà. Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, xây dựng chiến lược đầu tư theo định hướng xuất khẩu và chương trình xúc tiến thị trường xuất khẩu. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu. Thu hút đầu tư nước ngoài phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của toàn tỉnh cũng như các huyện, thị xã, thành phố Đà Lạt phải có tính khả thi, lấy hiệu qủa và sự tăng trưởng bền vững làm thước đo chủ yếu. Trong bối cảnh nếu nền kinh tế của cả nước nói chung, nền kinh tế các tỉnh trong cả nước, trong khu vực nói riêng có tốc độ tăng trưởng khá ổn định và tương đối cao, thì để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với cả nước và các tỉnh trong khu vực, chỉ có một cách lựa chọn là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao hơn. Tuy nhiên tốc độ tăng cao tới mức nào thì cần tính toán kỹ lượng. Một tốc độ tăng trưởng kinh tế được lựa chọn chỉ có thể coi là đúng đắn nếu đáp ứng được ít nhất hai yếu tố cơ bản (1) Phát huy được khả năng tối đa các nguồn lực, đồng thời sử dụng các nguồn lực ấy mang lại hiệu qủa tối ưu, (2) Không làm xáo trộn mục tiêu chung của chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo cho sự tăng trưởng được bền vững. Việc lập kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội cần phải dự phòng xu hướng diễn biến xấu hơn sự tính toán hiện nay, nhằm duy trì cho được mục tiêu chất lượng của sự phát triển là hiệu qủa và vững chắc.
Ba là : Nâng cao suất đầu tư: Một trong những yếu tố quan trọng quyết định tăng trưởng kinh tế là phải nâng cao suất đầu tư, do đó muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế phải nâng cao suất đầu tư (Suất đầu tư là một chỉ số mô tả mối quan hệ trực tiếp giữa vốn đầu tư với GDP, đó là tỷ lệ của vốn đầu tư so với GDP, tỷ lệ này so với tốc độ tăng trưởng được gọi là hệ số tăng trưởng của nền kinh tế)
Để có thêm vốn đầu tư, cung ứng đủ nguồn vốn cho yêu cầu tăng trưởng kinh tế, ngoài nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, từ tín dụng ưu đãi, vốn viện trợ, việc khai thác nguồn tài chính khác cho đầu tư cần hướng vào các nguồn sau đây:
- Sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ngân sách nhà nước, huy động các nguồn lực trong xã hội và tìm thêm nguồn vốn vay cả trong và ngoài nước để tập trung cho đầu tư phát triển.
- Huy động tiền gửi tiết kiệm qua ngân hàng thương mại để đầu tư cho phát triển. Tiềm lực tài chính trong dân tương đối dồi dào, một bộ phận dân cư có số dư tương đối lớn, nếu có chính sách phù hợp sẽ động viên nhân dân gửi tiết kiệm vào ngân hàng.
- Hoán đổi tài nguyên sang vốn, Lâm Đồng là tỉnh có nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú, trữ lượng lớn do đó nên dành một phần trao đổi, lấy vốn đầu tư trở lại cho nền kinh tế, nhất là loại tài nguyên đòi hỏi phải có công nghệ, thiết bị hiện đại để chế biến như cao lanh, đá sét xi măng, thiếc, bauxit ...
Bốn là: Cùng với những cố gắng về tạo vốn cần đặc biệt chú ý đến hiệu qủa sử dụng vốn vì hiệu qủa là chiếc lò so để nền kinh tế đi tiếp bước thứ hai. Nếu sử dụng vốn không có hiệu qủa thì không thể tái sản xuất mở rộng, không thể duy trì sự phát triển kinh tế với tốc độ cao. Trong những năm tới, tổng mức vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh Lâm Đồng cũng chưa lớn. Do vậy muốn nâng cao hiệu qủa kinh tế phải ưu tiên đầu tư cho một số ngành, một số lĩnh vực, một số vùng có lợi thế so sánh nhằm tạo ra các khâu đột phá, các cực tăng trưởng. Triển khai chiến lược đầu tư này cũng phải chấp nhận một thực tế là khoảng cách về kinh tế và đời sống các tầng lớp dân cư giữa các vùng trong tỉnh, cũng như giữa các vùng trong các địa phương sẽ cách biệt. Tuy nhiên, một khi các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng động lực được đầu tư lớn, tăng trưởng nhanh sẽ tạo vốn liếng để từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành, các lĩnh vực và các vùng còn lại.
Năm là: Phải kiên trì thực hiện đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hóa hình thức sỡ hữu tư liệu sản xuất. Trong những năm vừa qua, tỉnh ta chưa chú ý đến kinh tế tập thể và kinh tế ngoài quốc doanh nên các thành phần kinh tế này phát triển còn chậm, thậm chí kinh tế tập thể có xu hướng giảm. Giải pháp khắc phục tình trạng này không chỉ là đề ra chủ trương đường lối mà còn phải tổ chức, hướng dẫn và giúp đỡ kinh tế tập thể, kinh tế ngoài quốc doanh phát huy tiềm năng to lớn của mình. Đồng thời phải kiên quyết chống những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động của kinh tế ngoài quốc doanh như: buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo, làm hàng gỉa ... nhưng đồng thời cũng phải khuyến khích những người, những doanh nghiệp làm giàu chính đáng và hợp pháp.
Sáu là : Nâng cao trình độ dân trí, đào tạo đội ngũ lao động khoa học kỹ thuật, bồi dưỡng nhân tài cho nền kinh tế. Chú trọng, tăng cường sự đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học. Phải đưa ra được một chương trình và kế hoạch đồng bộ mang tầm chiến lược trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ và thợ lành nghề. Việc đào tạo phải tiến hành theo phương châm vừa phát triển chiều rộng nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt, nhưng đồng thời cũng vừa phải có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên sâu chuẩn bị cho nền kinh tế trong tương lai. Để việc quy hoạch đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học có hiệu qủa hơn, tỉnh cần:
- Điều tra xác định nhu cầu về số lượng cán bộ khoa học của từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế để dự kiến kế hoạch bổ sung thay thế.
- Hợp tác với các trường để tuyển sinh theo khả năng nguồn đầu vào và nhu cầu đào tạo cho cân đối; có chính sách khuyến khích, thu hút nhân tài về công tác tại tỉnh. Bằng phương pháp này có thể thu hút phần lớn con em học ở các trường Đại học Trung ương về phục vụ địa phương, tăng nhanh lực lượng cán bộ khoa học cho các ngành kinh tế.
- Việc phân phối, sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học cần cân đối, ưu tiên cho các cơ sở nghiên cứu khoa học, cơ sở sản xuất.
- Đào tạo chuyên gia đầu ngành cho các lĩnh vực kinh tế-xã hội. Ưu tiên đào tạo công nhân kỹ thuật cho các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp và du lịch. Đối với các ngành nghề địa phương chưa có khả năng đào tạo, tỉnh cần căn cứ nhu cầu để lựa chọn đối tượng tuyển sinh hợp đồng đào tạo ở các trường Trung ương, các địa phương khác. Ngân sách tỉnh sẽ hỗ trợ cho người học một phần, số học sinh này sau khi ra trường cần có kế hoạch tuyển dụng bổ xung cho các cơ sơ kinh tế.
Phải coi khoa học công nghệ thực sự là động lực phát triển nền kinh tế, khoa học công nghệ phải trở thành lực lượng sản xuất tiên tiến. Muốn vậy tỉnh cần giải quyết các mặt sau đây:
- Sắp xếp lại cơ quan làm công tác nghiên cứu khoa học trên địa bàn toàn tỉnh, trước hết là xác định các cơ quan thực sư hoạt động khoa học công nghệ để tổ chức lại, chuyển các cơ quan không cần thiết sang hoạt động kinh doanh phục vụ.
- Tăng cường đầu tư từ ngân sách cho công tác nghiên cứu khoa học. Đi đôi với tăng mức đầu tư cần quan tâm công tác quản lý nguồn đầu tư vào nghiên cứu khoa học, nhằm phát huy hiệu qủa của nguồn đầu tư . Kế hoạch đề tài cần xét duyệt chặt chẽ, tập trung đầu tư nghiên cứu các lĩnh vực kinh tế –xã hội cần thiết, mũi nhọn, tránh đầu tư phân tán.
- Cần tăng cường đầu tư ngân sách cho các cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ vì hiện nay, trang thiết bị cho một số cơ sở nghiên cứu khoa học còn lạc hậu, không đảm bảo yêu cầu, ảnh hưởng đến chất lượng các đề án, nhất là trong điều tra, nghiên cứu tình hình cơ bản, thí nghiệm của các dự án tính toán phức tạp.
Bảy là: Phải kiên quyết giữ vững nghiêm kỷ cương phép nước và chống tệ nạn tham nhũng.
Trong nền kinh tế thị trường, động lực cá nhân được giải tỏa, tình trạng vi phạm kỷ cương phép nước, tham nhũng ở cả nước nói chung và tỉnh Lâm Đồng nói riêng có xu hướng gia tăng. Theo kinh nghiệm thì quốc gia nào, tỉnh nào trong nước giữ được sự nghiêm minh của pháp luật thì nền kinh tế đạt được sự tăng trưởng bền vững, còn không sẽ nhận được kết qủa ngược lại.
Để khắc phục tình trạng vi phạm kỷ cương phép nước và tham nhũng hiện nay, nhà nước cần sớm vạch ra một các khung pháp lý đồng bộ, trong cái khung đó các doanh nghiệp cũng như mọt tổ chức, cá nhân công dân được tự do hoạt động, phát huy tiềm năng, sáng kiến của mình, nhưng tuyệt đối không vượt ra khỏi các khung pháp lý đó. Mọi sự vi phạm cần phải ngăn cản và trừng phạt nghiêm minh./.