TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH LÂM ĐỒNG

Ước năm 2008

 

Tình hình kinh tế-xã hội Lâm Đồng năm 2008 gặp nhiều khó khăn, nhất là ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới, giá cả tăng cao trong những tháng đầu năm nhất là giá vật tư, phân bón và lương thực, thực phẩm; lũ, lụt xảy ra ở một số địa phương trong tỉnh, dịch bệnh đối với gia súc, gia cầm và sâu bệnh phá hoại cây trồng... gây thiệt hại cho sản xuất và dời sống dân cư. Tuy nhiên, với những giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả thị trường của Chính phủ cũng như địa phương đã phát huy hiệu quả; khắc phục kịp thời hậu quả của lũ, lụt gây ra; tăng cường công tác đền bù giải tỏa các khu, cụm công nghiệp để thu hút các nhà đầu tư; tập trung triển khai những công trình thật sự cần thiết (đình hoãn và chuyển vốn khởi công 14 công trình không cần thiết sang công trình khác), tiếp tục đẩy nhanh tiến độ các chương trình trọng tâm, công trình trọng điểm đã đề ra; củng cố, phát triển mạng lưới du lịch, chỉnh trang đô thị chuẩn bị tổ chức kỷ niệm 115 năm Đà Lạt hình thành và phát triển và Lễ hội Trà lần II năm 2008 diễn ra trong tháng 12/2008; bên cạnh đó giá cả các mặt hàng nông sản chủ lực của địa phương luôn ổn định ở mức cao đã kích thích đầu tư sản xuất. Vì vậy, nền kinh tế tỉnh Lâm Đồng năm 2008 tiếp tục duy trì ổn định và tăng trưởng ở hầu hết các ngành, khu vực kinh tế và các địa phương; một số mặt về lĩnh vực xã hội có chuyển biến tích cực, nhất là trên lĩnh vực giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản giữ vững.

Bảng 1:  Tổng sản phẩm trên địa bàn  (GDP)

                                                                                               

Ước thực hiện

năm 2008

So sánh

2008/2007

 

(Triệu đồng)

(%)

1) Tổng sản phẩm (GDP)  giá thực tế

16.250.257

129,5

_ Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản

8.244.907

126,7

_ Khu vực công nghiệp-xây dựng

3.267.164

134,2

_ Khu vực dịch vụ

4.738.186

131,4

2) Tổng sản phẩm (GDP)  giá SS 1994

9.354.297

114,1

_ Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản

5.055.762

109,4

_ Khu vực công nghiệp- xây dựng

2.438.985

125,4

_ Khu vực dịch vụ

1.859.550

113,8

Tổng sản phẩm trên địa bàn toàn tỉnh năm 2008 (theo giá so sánh 1994) ước đạt 9.354,3 tỷ đồng, tăng 14,1% so năm 2007, đạt kế hoạch đề ra. Trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đạt 5.055,76 tỷ đồng, tăng 9,4%; khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 2.438,99 tỷ đồng, tăng 25,4% và khu vực dịch vụ đạt 1.859,55 tỷ đồng, tăng 13,8% so năm 2007. Trong 14,1% tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 5,3%, khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 6%, còn lại khu vực dịch vụ đóng góp 2,8%. Kinh tế tăng trưởng khá so năm 2007 một phần do Nhà máy Thủy điện Đại Ninh đi vào sản xuất-kinh doanh từ tháng 1 năm 2008. Nếu loại trừ giá trị thủy điện Đa Nhim - Hàm Thuận - Đa Mi và Thủy điện Đại Ninh thì tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh năm 2008 đạt 8.371,78 tỷ đồng, tăng 10,7% so năm 2007.

Theo giá thực tế, tổng sản phẩm trên địa bàn toàn tỉnh năm 2008 ước đạt 16.250,26 tỷ đồng, tăng 29,5% so năm trước. GDP bình quân đầu người năm 2008 đạt 13,36 triệu đồng/người/năm. Về cơ cấu kinh tế, đã có sự chuyển dịch so năm 2007 theo hướng giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ; tuy nhiên sự dịch chuyển không đáng kể. Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản từ 51,9% năm 2007 giảm xuống 50,7% năm 2008; tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 19,4% năm 2007 lên 20,1% năm 2008; khu vực dịch vụ tăng từ 28,7% năm 2007 lên 29,2% năm 2008.

Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2008 ước đạt 2.124,37 tỷ đồng, bằng 111,81% dự toán địa phương, tăng 14,24% so năm 2007. Tổng thu ngân sách địa phương cả năm đạt 3.735,02 tỷ đồng, đạt 129,9% dự  toán địa phương, tăng 7,3% so năm trước. Tổng chi NSĐP năm 2008 thực hiện 3.531,57 tỷ đồng, đạt 122,83% dự toán địa phương, tăng 7,13% so năm trước. Tổng đầu tư toàn xã hội đạt 6.165,09 tỷ đồng, bằng 37,94% GDP, đạt 94,85% kế hoạch năm, tăng 17,37% so năm 2007.

I/ Sản Xuất Nông, Lâm Nghiệp và thủy sản

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2008 trên địa bàn Lâm Đồng tiếp tục chuyển đổi theo hướng đầu tư theo chiều sâu, chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng và hiệu quả cao, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, đặc biệt là trong lãnh vực rau, hoa, cây đặc sản, chè, cà phê; phát triển chăn nuôi heo siêu nạc, bò chất lượng cao, nuôi cá nước lạnh... Nhìn chung thời tiết trong năm có nhiều thuận lợi, mưa sớm và phân bố đều trên khắp các địa bàn trong tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và phát triển lâm sinh, hạn chế tình trạng cháy rừng. Bên cạnh đó cũng còn nhiều khó khăn như giá vật tư phân bón, giống cây trồng, thức ăn gia súc tăng cao làm tăng chi phí đầu tư; tình trạng phân bón giả, kém chất lượng xảy ra khá phổ biến ở nhiều huyện trong những tháng đầu năm làm ảnh hưởng đến một số vùng sản xuất nông nghiệp trên địa bàn; giá cà phê biến động giảm mạnh trong thời điểm thu hoạch làm giảm thu nhập và ảnh hưởng đến đời sống của người sản xuất cà phê.

 

1. Sản xuất nông nghiệp:

Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm 2008 ước thực hiện 108.678 ha, đạt 104,05% kế hoạch năm, tăng 3,59% so năm 2007. Trong đó, lúa 32.217 ha, đạt 96,29%  kế hoạch và bằng 98,27% so năm trước, do một số diện tích vụ Mùa bị ngập úng không thể gieo cấy kịp vụ nên bà con chuyển sang trồng cây khác; ngô 18.405 ha, đạt 97,47% kế hoạch, bằng 92,69% so năm trước, do một phần diện tích chuyển sang trồng cây lâu năm, xây dựng cơ bản, và một phần do độ khép tán ở vùng cây lâu năm nên không thể trồng xen; khoai lang 2.915 ha, đạt 102,91% kế hoạch, bằng 100,1% so năm trước; sắn 3.404 ha, vượt 146,85% kế hoạch, tăng 67,68% so năm trước, tập trung chủ yếu ở vùng đồng bào dân tộc huyện Đam Rông và 3 huyện phía Nam, tăng mạnh do vài năm gần đây giá tiêu thụ ổn định nên bà con tập trung trồng nhiều; rau các loại 39.237 ha, đạt 108,18% kế hoạch, tăng 11,93%; hoa các loại 3.256 ha, vượt 26,45% kế hoạch, tăng 9,63%; đậu các loại 2.740 ha, đạt 95,44% kế hoạch, bằng 89,84% so năm trước.

Dự ước sản lượng lương thực có hạt cả năm 2008 đạt 218.188 tấn, bằng 96,35% so năm 2007, giảm chủ yếu do sản lượng ngô; sản lượng lương thực có hạt bình quân đầu người đạt 179,34 kg/người/năm. Trong tổng sản lượng lương thực có hạt, lúa 143.633 tấn, đạt 97,73% kế hoạch, tăng 3,19%, năng suất bình quân đạt 44,58 tạ/ha, tăng 2,12 tạ/ha so năm 2007; ngô 73.655 tấn, đạt 81,5% kế hoạch, bằng 84,41%, năng suất bình quân đạt 40,02 tạ/ha, giảm 3,93 tạ/ha do hạn hán cục bộ xảy ra trong thời kỳ trổ cờ. Sản lượng rau các loại năm 2008 đạt 1.123.582 tấn, đạt 114,78% kế hoạch, tăng 20,31%, năng suất bình quân 286,36 tạ/ha, tăng 19,94 tạ/ha so năm 2007; đậu các loại 2.504 tấn, đạt 90,53% kế hoạch và bằng 86,14% so năm 2007, năng suất bình quân 9,1 tạ/ha, giảm 0,43 tạ/ha so năm 2007.

Chia ra các vụ:

- Vụ Đông xuân: Cây trồng chính trong vụ chủ yếu là lúa, rau, hoa và một số cây trồng khác với tổng diện tích gieo trồng đã thực hiện 25.362 ha, tăng 7,04% so cùng vụ năm trước. Trong đó, cây lương thực có hạt 10.276 ha, chiếm 40,52% tổng diện tích gieo trồng trong vụ, tăng 6,08% so cùng vụ (lúa 9.401 ha, tăng 3,89%; ngô 875 ha, tăng 37,15%);  rau các loại 11.985 ha, chiếm 47,26% tổng diện tích gieo trồng trong vụ, tăng 5,48% so cùng vụ; hoa các loại 1.261 ha, tăng 6,06%... Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 48.130 tấn, tăng 12,81% so cùng vụ năm trước, trong đó lúa 44.183 tấn, tăng 10,27%, năng suất bình quân đạt 74 tạ/ha; ngô 3.947 tấn, tăng 52,1%, năng suất bình quân đạt 45,1 tạ/ha. Sản lượng rau các loại đạt 344.044 tấn, tăng 11,25%, năng suất bình quân đạt 287,1 tạ/ha, tăng 15,1 tạ/ha do thời tiết trong vụ khá thuận lợi và tỷ lệ sâu bệnh, hư hại thấp.

- Vụ Hè thu: Toàn tỉnh đã gieo trồng 38.919 ha, tương đương cùng vụ năm trước, trong đó lúa 5.987 ha, chiếm 15,38% tổng diện tích, tăng 1,35%; ngô 14.047 ha, giảm 7,19%; rau các loại 13.810 ha, tăng 17,69%; đậu các loại 1.141 ha, giảm 14,15%; hoa các loại 818 ha, tăng 2,12% so cùng vụ. Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 80.811 tấn, giảm 13,84% so cùng vụ năm trước do sản lượng ngô giảm, trong đó lúa 26.007 tấn, tăng 1,91%, năng suất bình quân đạt 43,4 tạ/ha; ngô 54.804 tấn, giảm 19,73%, năng suất bình quân đạt 39 tạ/ha, giảm 6,11 tạ/ha so cùng vụ. Sản lượng rau các loại đạt 395.878 tấn, tăng 32,44%, năng suất bình quân đạt 287 tạ/ha, tăng 32 tạ/ha.

- Vụ Mùa: Là vụ có quy mô diện tích gieo trồng lớn nhất trong năm, chiếm 40,85% tổng diện tích gieo trồng cả năm. Tổng diện tích gieo trồng đã thực hiện trong vụ đạt 44.397 ha, tăng 4,03% so cùng vụ năm trước, chủ yếu tăng ở diện tích rau và hoa. Lúa gieo cấy 16.829 ha, giảm 5,55%; ngô 3.483 ha, giảm 14,67%; rau các loại 13.442 ha, tăng 12,41%; đậu các loại 1.145 ha, giảm 7,74%; hoa các loại 1.177 ha, tăng 20,1% so cùng vụ năm trước. Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 89.247 tấn, xấp xỉ cùng vụ năm trước, trong đó lúa 73.443 tấn, năng suất bình quân đạt 43,6 tạ/ha; ngô 14.904 tấn, giảm 9,08%, năng suất bình quân đạt 42,79 tạ/ha, tăng 2,59 tạ/ha so cùng vụ năm 2007. Sản lượng rau các loại đạt 383.660 tấn, tăng 17,78% so cùng vụ, năng suất bình quân đạt 285 tạ/ha, tăng 12,6 tạ/ha so cùng vụ năm 2007; đậu các loại đạt 1.045 tấn, giảm 7,85% so cùng vụ, năng suất bình quân đạt 9 tạ/ha, giảm 0,1 tạ/ha so cùng vụ năm trước.

Cây lâu năm giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh, chiếm trên 50% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, trong đó cây chủ lực là cà phê và chè. Trong những năm gần đây giá các mặt hàng nông sản này luôn ổn định ở mức cao nên đã kích thích bà con đầu tư sản xuất, tiếp tục trồng mới và chuyển đổi theo hướng đầu tư vào những cây trồng cho chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế cao. Tính đến nay, tổng diện tích cây lâu năm trên địa bàn tỉnh hiện có 186.335 ha, đạt 96,34% kế hoạch, tăng 2,14% so năm 2007; trong đó diện tích cây công nghiệp lâu năm 171.444 ha, chiếm 92%, cây ăn quả và lâu năm khác 14.891 ha, chiếm 8%. Một số cây lâu năm chủ lực: tổng diện tích cà phê hiện có 129.220 ha, tăng 3,99% ha so năm trước, trong đó diện tích cho sản phẩm 123.710 tăng 3,61% so năm 2007, sản lượng cà phê thu hoạch ước đạt 282.606 tấn, tăng 5,06% so niên vụ 2007, năng suất bình quân trên diện tích thu hoạch đạt 22,84 tạ/ha. Cây chè diện tích hiện có 25.675 ha, giảm 1,4% ha so năm 2007, trong đó diện tích chè kinh doanh 24.195 ha; năng suất chè bình quân đạt từ 76,1 tạ/ha đến 77,7 tạ/ha, sản lượng chè búp tươi thu hoạch ước đạt 188.180 tấn, tăng 1,76% so năm trước; tổng diện tích điều hiện có 15.860 ha, tăng 4,04% so năm 2007, trong đó diện tích điều cho sản phẩm 11.032 ha, năng suất ước 5,73 tạ/ha, sản lượng ước đạt 6.342 tấn, tăng 13,03%...

Tình hình chăn nuôi trong năm có nhiều biến động, mức biến động ở từng loại gia súc, gia cầm có xu hướng khác nhau, trong đó đàn bò và đàn lợn số lượng giảm đáng kể. Theo kết quả điều tra thời điểm 1/10/2008 so thời điểm 1/8/2007 số lượng gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh như sau: đàn trâu tiếp tục duy trì ổn định với số lượng 18.530 con, tăng 2,72%; đàn bò có 74.949 con, giảm 30,27% so cùng kỳ, do diện tích đồng cỏ thu hẹp, việc chăn thả gặp nhiều khó khăn, người dân thiếu vốn nên đã bán bò để thu hồi vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất khác có hiệu quả cao hơn; đàn lợn có xu hướng giảm mạnh, tổng đàn lợn có 309.406 con, giảm 15,73% so cùng kỳ, giảm do giá cả không ổn định, thức ăn chăn nuôi tăng, dịch bệnh vẫn còn xảy ra ở một số địa phương trong cả nước và rủi ro trong chăn nuôi lớn do đó người chăn nuôi hạn chế đầu tư. Riêng đàn gia cầm trong thời gian qua được phục hồi và tiếp tục phát triển ổn định, tổng đàn gia cầm hiện có 1,94 triệu con, tăng 7,64% so cùng kỳ. Công tác phòng dịch, kiểm dịch trên đàn gia súc, gia cầm được chú trọng và duy trì thường xuyên nên không xảy ra dịch bệnh lớn trên địa bàn toàn tỉnh.

2. Lâm nghiệp:

Ước tính đến hết năm 2008, sản lượng lâm sản do các đơn vị lâm nghiệp thuộc kinh tế nhà nước khai thác đạt: 52.450m3 gỗ tròn các loại, tăng 32,78% so năm 2007, trong đó thuộc kế hoạch năm 2007 chuyển sang 21.544m3, đạt 100% kế hoạch, tận thu tỉa vệ sinh rừng 22.792m3, gỗ kế hoạch 2008 khai thác 8.114m3, đạt 35,28% kế hoạch; tre nứa lồ ô các loại 1.520 ngàn cây, tăng 122,87% so cùng kỳ; tre nứa giấy 190 tấn; củi thước 10.445 ster, tăng 60,69% so cùng kỳ; keo nguyên liệu giấy 6.300m3, tăng 5% so năm 2007.

Công tác lâm sinh đã thực hiện theo đúng kế hoạch đề ra, cả năm 2008 chăm sóc 1.195 ha rừng trồng, bằng 25,28% so năm 2007; trồng rừng tập trung 1.807,8 ha, tăng 82,05% so năm 2007; giao khoán quản lý bảo vệ rừng 330.913 ha, đạt 98,1% kế hoạch, tương đương so cùng kỳ.

Tình hình vi phạm lâm luật tính từ đầu năm đến hết tháng 11 năm 2008 (theo số liệu của Chi cục Kiểm lâm): tổng số vụ vi phạm 2.249 vụ, giảm 14,36% so cùng kỳ, trong đó phá rừng trái phép 832 vụ, với diện tích rừng bị phá 293 ha, tăng 33,76% về số vụ và tăng 18,9% về diện tích so cùng kỳ năm 2007(trong đó phá rừng làm nương rẫy 588 vụ, tăng 70,9% do một số dân di cư tự do phá rừng để trồng cà phê); khai thác gỗ và lâm sản trái phép 427 vụ, giảm 10,7%; vận chuyển, mua bán trái phép lâm sản, động vật rừng 902 vụ, giảm 2,06% so cùng kỳ. Lâm sản thu qua xử lý vi phạm: gỗ tròn các loại 1.926,1m3, gỗ xẻ các loại 1.279,9m3, và nhiều lâm sản khác. Thu nộp ngân sách 9,3 tỷ đồng, trong đó tiền bán lâm sản và phương tiện tịch thu 8,1 tỷ đồng.

3. Thủy sản:

Là tỉnh vùng núi cao nên hoạt động sản xuất thủy sản thường nhỏ, lẻ, nuôi trồng thủy sản chủ yếu là diện tích tận dụng và phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống gia đình. Trong vài năm gần đây, cá hồi nước lạnh được đưa vào nuôi ở huyện Lạc Dương và một số vùng lân cận bước đầu đã thu được kết quả nhưng việc mở rộng quy mô còn gặp nhiều khó khăn.

Tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn tỉnh hiện có 2.569,7 ha, tăng 7,25% so năm  2007, diện tích tăng chủ yếu ở Huyện Lâm Hà do các hộ tận dụng các diện tích mặt nước để nuôi trồng. Diện tích nuôi tôm giảm vì hiệu quả thấp, hơn nữa vốn đầu tư lớn và kỹ thuật nuôi đòi hỏi cao. Diện tích ươm, nuôi giống thuỷ sản tăng lên, đặc biệt là có sự đầu tư cho ươm giống cá hồi trên địa bàn tỉnh; Viện nghiên cứu thuỷ sản trung ương 3 đã sử dụng 2,2 ha để thực hiện việc ươm, nuôi giống cá hồi,  trong năm 2008 xuất bán ra thị trường khoảng hơn 400 ngàn con cá giống. Do nuôi, thả cá hồi đem lại hiệu quả kinh tế cao nên nhu cầu về con giống lớn, tuy nhiên do mới đi vào ươm, nuôi giống thử nghiệm nên số lượng con giống vẫn còn hạn chế. Dự ước trong năm  2009, tổng số con giống sẽ xuất bán ra thị trường khoảng 3 triệu con.

Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng năm 2008 đạt 5.235,6 tấn, tăng 24,13% so năm 2007, do tăng diện tích mặt nước nuôi trồng.

Tổng sản lượng cá hồi xuất bán ra thị trường trong năm đạt 41,1 tấn, chủ yếu là các doanh nghiệp như Thiên Thai, Hoàng Phố ở huyện Lạc Dương.

Trong năm 2008, trên địa bàn tỉnh có Công ty TNHH Cá Tầm Việt tiến hành nuôi cá Tầm lồng, bè trong Hồ Tuyền Lâm với thể tích 600m3 nhưng chưa cho thu hoạch vì cá tầm nuôi ít nhất là 2 năm mới cho thu hoạch.

Hiện nay, hoạt động nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn tỉnh vẫn còn hạn chế vì các hộ chủ yếu tận dụng diện tích chứa nước tưới cây trồng để nuôi thả do vậy đầu tư thấp nên năng suất không cao.

II/ Công nghiệp - Xây dựng cơ bản

1. Sản xuất công nghiệp:

Hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh năm 2008 tiếp tục duy trì ổn định và tăng trưởng trên cơ sở phát huy lợi thế sẵn có của địa phương, mặc dù năm 2008 gặp không ít khó khăn từ yếu tố khách quan cũng như chủ quan. Giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp (giá thực tế) ước cả năm 2008 thực hiện 5.076,55 tỷ đồng,  tăng 21,86% so năm 2007. Trong đó, kinh tế nhà nước đạt 1.430,74 tỷ đồng, tăng 31,13%; kinh tế ngoài nhà nước đạt 2.892,2 tỷ đồng, tăng 18,49% và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 753,61 tỷ đồng, tăng 18,92%. Ngành công nghiệp khai thác mỏ đạt 149,91 tỷ đồng, tăng 37,59%; công nghiệp chế biến đạt 3.750,54 tỷ đồng, tăng 18,22% và ngành sản xuất phân phối điện nước đạt 1.131,1 tỷ đồng, tăng 32,84% so năm 2007.

Bảng 2:   Giá trị sản xuất công nghiệp (giá CĐ 1994)

 

Ước thực hiện năm 2008

% so với

 

 (Triệu đồng)

năm 2007

Tổng số

4.087.008

120,48

* Phân theo ngành công nghiệp

 

 

 - Khai thác mỏ

123.073

123,71

 - Chế biến

2.678.698

115,60

 - Sản xuất, PP điện, nước, khí đốt

1.285.237

131,72

* Phân theo loại hình kinh tế

 

 

 - Kinh tế nhà nước

1.526.060

128,07

 - Kinh tế ngoài nhà nước

1.823.820

116,90

 - Kinh tế có vốn đầu tư NN

737.127

115,07

Theo giá cố đinh 1994, giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp ước năm 2008 thực hiện 4.087,01 tỷ đồng, đạt 102,02% kế hoạch và tăng 20,48% so năm 2007. Trong đó, kinh tế nhà nước đạt 1.526,06 tỷ đồng, tăng 28,07%, đạt 78% kế hoạch; kinh tế ngoài nhà nước đạt 1.823,82 tỷ đồng, tăng 16,9%, đạt 129,62% kế hoạch và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 737,13 tỷ đồng, tăng 15,07%, đạt 114,73% kế hoạch. Ngành công nghiệp chế biến đạt 2.678,7 tỷ đồng, tăng 15,6%; ngành sản xuất phân phối điện nước đạt 1.285,24 tỷ đồng, tăng 31,72% và công nghiệp khai thác mỏ đạt 123,07 tỷ đồng, tăng 23,71% so năm 2007.

Một số sản phẩm chủ yếu có mức sản xuất tăng cao so năm 2007: cao lanh các loại đạt 127.248 tấn, tăng 52,49%, vượt 59,06% kế hoạch; sợi tơ tằm các loại đạt 1.220,5 tấn, tăng 23,16%, bằng 97,64% kế hoạch; đá các loại đạt 725,4 ngàn m3, tăng 22,6%, bằng 76,36% kế hoạch; cát sỏi các loại đạt 618,8 tấn, tăng 22,17%, bằng 61,88% kế hoạch; gạch nung các loại đạt 311,63 triệu viên, tăng 19,46%, đạt 103,88% kế hoạch; rau sấy khô đạt 399 tấn, tăng 14,6%; chè chế biến đạt 43.218 tấn, tăng 12,15%, vượt 23,48% kế hoạch; quần áo may sẵn đạt 2.745,3 ngàn cái, tăng 12,05%; hạt điều chế biến đạt 1.272 tấn, tăng 9,62%; cà phê chế biến đạt 626,2 tấn, tăng 4,72%...

Bên cạnh đó còn có một số sản phẩm sản xuất giảm so năm 2007 như: quặng bau xít đạt 109.678 tấn, giảm 7,13%; lụa tơ tằm các loại đạt 1.137,2 ngàn m2, giảm 9,53%; sản phẩm thêu đan đạt 1.465,2 ngàn cái, giảm 15,26%; phân bón NPK đạt 13,13 ngàn tấn, giảm 40,71% so năm 2007.

2. Đầu tư xây dựng:

Sang tháng 12/2008, thời tiết Lâm Đồng thuận lợi và giá cả vật liệu xây dựng bình ổn trở lại, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, hoàn thành đưa vào sử dụng nhằm phấn đấu thực hiện theo kế hoạch đề ra. Công tác đầu tư xây dựng trong năm 2008 trên địa bàn tỉnh, tập trung đầu tư phát triển các ngành kinh tế có ưu thế của địa phương, tiếp tục triển khai các chương trình mục tiêu và công trình trọng điểm nhằm tạo tiền đề để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; đồng thời triển khai các công trình cảnh quan chuẩn bị kỷ niệm 115 năm Đà Lạt hình thành và phát triển tổ chức vào trung tuần tháng 12/2008. Công tác quản lý của địa phương có nhiều cải tiến: việc lựa chọn những nhà đầu tư thực sự có năng lực, kiên quyết xử lý, thu hồi những dự án chậm triển khai được chú trọng; công tác cấp phát vốn cũng được quan tâm. Tuy nhiên, giá cả vật liệu xây dựng tăng trong 3 quý đầu năm, tình hình lạm phát trong năm và công tác đền bù giải toả còn nhiều bất cập đã ảnh hưởng đến tiến độ thi công các công trình xây dựng trên địa bàn.

Bảng 3:   Tổng vốn đầu tư phát triển

 

Tổng mức năm 2008 (triệu đồng)

% so sánh năm 2008 với năm 2007

Tổng vốn đầu tư phát triển

6.165.096

117,37

A. Nguồn vốn do Địa phương quản lý

5.350.096

117,13

  I. Vốn nhà nước

1.535.106

100,03

  II. Vốn ngoài quốc doanh

3.580.572

131,42

  III. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

234.418

 76,02

B. Nguồn vốn do Trung ương quản lý

815.000

118,94

Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh năm 2008 ước thực hiện 6.165,09 tỷ đồng, tăng 17,37% so cùng kỳ năm trước, bằng 37,94% so với GDP năm 2008. Chia ra: 

- Vốn đầu tư phát triển do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh đạt 5.350,09 tỷ đồng, tăng 17,13% so cùng kỳ năm trước. Trong đó:

+ Vốn nhà nước đạt 1.535,1 tỷ đồng, tương đương năm 2007 (nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước thực hiện 1.200,9 tỷ đồng, chiếm 78,23% trong tổng vốn, đạt 100% so kế hoạch năm 2008 và tăng 11,45% so với cùng kỳ). Đến nay các chương trình mục tiêu từng bước được thực hiện, cơ bản đáp ứng yêu cầu đặt ra, một số chương trình đã đi vào hoạt động, phát huy hiệu quả. Một số công trình trọng điểm đã cơ bản hoàn thành như: Đường 723, đường cao tốc sân bay Liên Khương - đèo Prenn, thuỷ điện Đại Ninh, sân bay Liên Khương các dự án công trình trọng điểm khác tuy triển khai hơi chậm nhưng đã đạt được một số kết quả bước đầu, duy nhất chỉ có dự án Khu du lịch Đankia- Đà Lạt chưa khởi công xây dựng.

+ Vốn đầu tư khu vực ngoài quốc doanh đạt 3.515,6 tỷ đồng tăng 29,04% so với năm 2007, trong đó vốn đầu tư của các tổ chức doanh nghiệp đạt 1.298,7 tỷ tăng 20% và vốn đầu tư của các hộ gia đình (cá thể) đạt 2.216,9 tỷ đồng tăng 35%.

+ Vốn đầu tư khu vực FDI đạt 234,4 tỷ đồng, giảm 23,98% so cùng kỳ, chủ yếu đầu tư của các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài đạt gần 212 tỷ đồng.

- Nguồn vốn đầu tư phát triển do trung ương quản lý trên địa bàn đạt 815 tỷ đồng, tăng 18,94% so năm 2007.

* Tình hình thành lập mới doanh nghiệp và đầu tư nước ngoài:

Trong 11 tháng đầu năm 2008, trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng có 560 doanh nghiệp được cấp đăng ký kinh doanh mới với tổng số vốn đăng ký kinh doanh hơn 6.964,7 tỷ đồng; gồm 162 doanh nghiệp tư nhân, 329 công ty trách nhiệm hữu hạn, 68 công ty cổ phần và 1 doanh nghiệp nhà nước. Trong năm đã tiến hành cấp đăng ký thay đổi ngành nghề kinh doanh, địa chỉ trụ sở, người đại diện, thành viên góp vốn, thay đổi vốn đầu tư và thay đổi khác cho 796 doanh nghiệp.

Tính từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 18 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký 114.448.750 USD nâng tổng số dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh đến nay là 116 dự án đầu tư còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký đạt 551,8 triệu USD, trong đó 93 dự án 100% vốn nước ngoài với tổng vốn đầu tư 394,8 triệu USD; 20 dự án liên doanh với tổng vốn đầu tư 151,3 triệu USD và 03 hợp đồng hợp tác kinh doanh với tổng vốn đầu tư đăng ký 5,65 triệu USD. Tình hình thực hiện vốn đầu tư trong khu vực này 11 tháng năm 2008 đạt 190,5 triệu USD.

III/ Thương mại - giá cả

1. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ, du lịch:

Tình hình lưu chuyển hàng hóa trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong năm 2008 có nhiều biến động do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới, cũng như giá cả biến động tăng trong những tháng đầu năm đã ảnh hưởng lớn đến sức mua của nhân dân. Tuy nhiên, với những biện pháp kịp thời của Chính phủ và địa phương đã kiềm chế được lạm phát, đồng thời những tháng cuối năm diễn ra nhiều lễ hội như Lễ hội Văn hóa trà lần II tại thị xã Bảo Lộc, Lễ hội Văn hóa kỷ niệm 115 năm Đà Lạt hình thành và phát triển với nhiều hoạt động phong phú, lễ Noel, Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán sắp đến, nên đã kích cầu làm cho lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn tỉnh trong năm 2008 tiếp tục tăng trưởng mạnh và đã thu hút một lượng lớn khách du lịch trong nước cũng như nước ngoài đến tham quan, nghỉ dưỡng.

Dự ước cả năm 2008, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ đạt 12.986,98 tỷ đồng, tăng 40,47% so năm trước, trong đó hai thành phần kinh tế cá thể và tư nhân chiếm tỷ trọng lớn nhất và cũng là thành phần kinh tế có mức tăng trưởng cao nhất. Cụ thể, kinh tế cá thể đạt 9.007,81 tỷ đồng, chiếm 69,36%, tăng 44,43%; kinh tế tư nhân đạt 3.122,07 tỷ đồng, chiếm 24,04, tăng 33,8%.

Bảng 4:   Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ

 

Ước 

năm 2008

Cơ cấu

(%)

So sánh năm 2008/2007

 

(Triệu đồng)

 

(%)

Tổng số

12.986.981

100

140,47

* Chia theo loại hình KT

 

 

 

  - Kinh tế nhà nước

725.123

5,58

126,91

  - Kinh tế ngoài nhà nước

12.130.974

93,41

141,53

  - Kinh tế có vốn ĐTNN

130.884

1,01

127,40

* Chia theo ngành hoạt động

 

 

 

  - Ngành thương nghiệp

11.136.257

85,75

144,19

  - Khách sạn, nhà hàng

1.366.463

10,52

123,69

  - Du lịch lữ hành

46.244

0,36

117,62

  - Du lịch, dịch vụ

438.017

3,37

115,87

Xét theo ngành kinh tế, đóng góp lớn nhất vào sự tăng trưởng chung của tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ năm 2008 là ngành thương nghiệp 11.136,26 tỷ đồng, chiếm 85,75%, tăng 44,19% so năm 2007; ngành khách sạn, nhà hàng 1.366,46 tỷ đồng, tăng 23,69%; hai ngành còn lại tăng trưởng ổn định, ngành du lịch lữ hành tăng 17,62% và ngành dịch vụ tăng 15,87% so năm 2007.

Hoạt động du lịch trong năm 2008 tiếp tục thu hút một lượng khách lớn đến với Đà Lạt-Lâm Đồng do chất lượng dịch vụ và môi trường du lịch ngày càng được quan tâm cải thiện. Ước cả năm 2008, lượng khách qua đăng ký lưu trú và lữ hành phục vụ đến Đà Lạt-Lâm Đồng đạt 1.455.973 lượt khách, tăng 10,29% so năm 2007; trong đó khách quốc tế 79.514 lượt khách, bằng 92,27% so cùng kỳ năm trước và khách trong nước đạt 1.376.459 lượt khách, tăng 11,54% so năm  2007. 

2. Giá cả thị trường:

Tiếp tục thực hiện các giải pháp của Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát, tăng cường công tác quản lý thị trường, công khai giá, đồng thời thực hiện điều chỉnh giảm giá xăng, dầu theo giá thị trường thế giới trong thời gian qua đã làm chỉ số giá tiêu dùng tỉnh Lâm Đồng trong tháng 12/2008 tiếp tục có xu hướng giảm. Chỉ số giá tiêu dùng tỉnh Lâm Đồng tháng 12/2008 giảm 0,57% so tháng trước, tăng 22,93% so tháng 12 năm trước, so kỳ gốc năm 2005 tăng 52,76%. Giảm mạnh nhất là nhóm hàng giao thông, bưu chính viễn thông giảm 6,7% so tháng trước do giá xăng, dầu giảm nên cước phí vận tải cũng giảm theo; nhóm hàng lương thực tiếp tục giảm mạnh, so tháng trước giảm 4,43%, giảm ở hầu hết tất cả các loại gạo và các sản phẩm từ gạo (gạo tẻ thường giảm 500đ/kg, gạo tẻ ngon giảm từ 500-1000đ/kg, bún tươi giảm 500đ/kg...); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 2,27% so tháng trước, nhất là giá sắt thép giảm mạnh, giá xăng, dầu và giá gas cũng giảm theo giá thị trường thế giới.

Tháng 12 là tháng cuối năm, có nhiều ngày lễ lớn, chuẩn bị đón năm mới, đồng thời cũng là mùa cưới do đó giá cả các nhóm hàng dịch vụ phục vụ lễ, tết có xu hướng tăng. So tháng trước nhóm thực phẩm tăng 3,12%, tăng mạnh nhất là mặt hàng rau xanh do một số vùng rau ở miền Bắc bị hư hại nặng trong những trận mưa lũ vừa qua nên rau Lâm Đồng được tăng cường ra phía Bắc làm cho giá rau tại địa phương tăng lên; nhóm hàng may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 1,89% so tháng trước; nhóm hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,54% và nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,35% so tháng trước.

Giá vàng trên địa bàn tỉnh tháng 12/2008 tăng trở lại (tăng 0,7% so tháng trước), so tháng 12 năm trước tăng 7,86% và bằng 2 lần so kỳ gốc năm 2005.

Cùng với giá vàng, giá đôla Mỹ cũng tăng 0,89% so tháng trước, so tháng 12 năm trước tăng 6,85% và so kỳ gốc năm 2005 tăng 8,09%.

3.  Xuất, nhập khẩu:

 a) Xuất khẩu:

Năm 2008, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ và suy thoái kinh tế toàn cầu, tình hình giá cả trong nước có nhiều biến động thất thường nên đã ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động xuất khẩu trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh đã có nhiều cố gắng, chủ động trong hoạt động sản xuất, cùng với những giải pháp tháo gỡ khó khăn từ trung ương đến địa phương nên kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tỉnh năm 2008 tiếp tục được duy trì ổn định.

Bảng 5:  Tổng kim ngạch xuất khẩu

 

Ước năm 2008

So sánh với 2007

 

(ngàn USD)

( %)

Tổng trị giá

238.140

122,44

 - Kinh tế nhà nước

1.581

8,88

 - Kinh tế tư nhân

43.813

198,93

 - Kinh tế có vốn  ĐTNN

192.746

124,62

Kim ngạch xuất khẩu năm 2008 ước đạt 238,14 triệu USD, đạt 101,76% kế hoạch, tăng 22,44% so năm trước. Trong đó, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 192,75 triệu USD, chiếm 80,94%, tăng 24,62% so năm trước; kinh tế tư nhân đạt 43,81 triệu USD, tăng 98,93% so năm 2007 do cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước.

Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: cà phê mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh chiếm 59,42% tổng kim ngạch xuất khẩu, năm 2008 ước đạt 70,11 ngàn tấn, trị giá 141,5 triệu USD, tăng 27,8% về giá trị so năm trước; tiếp đến là hàng dệt may chiếm 13,46% kim ngạch xuất khẩu, với trị giá 32,04 triệu USD, tăng 56,11% so năm 2007; chè là mặt hàng có nhiều đơn vị đầu tư nhưng vẫn chưa xứng với tiềm năng hiện có, năm 2008 chỉ xuất khẩu 10,83 ngàn tấn, đạt trị giá 15,01 triệu USD, chiếm 6,3% kim ngạch xuất khẩu, tăng 10,42% về giá trị so năm trước; hàng nông sản khác chủ yếu là hoa các loại xuất khẩu 12,14 triệu USD, chiếm 5,09% kim ngạch xuất khẩu, tăng 4,93% so cùng kỳ; hạt điều xuất khẩu 1,63 ngàn tấn, đạt 6,8 triệu USD, chiếm 2,86% kim ngạch xuất khẩu, tăng 39,16% về giá trị so năm trước, chủ yếu do Công ty CP Thực phẩm Lâm Đồng thực hiện.

b) Nhập khẩu:

Dự ước kim ngạch nhập khẩu năm 2008 là 22,87 triệu USD, bằng 65,34% kế hoạch năm và bằng 92,07% so năm trước, do thực hiện các giải pháp hạn chế nhập siêu, đẩy mạnh xuất khẩu nhằm ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Trong đó, kinh tế trong nước nhập 14,06 triệu USD và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 8,81 triệu USD. Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu như: tơ sợi, vải may mặc, giống hoa...

4. Giao thông vận tải:

Hoạt động vận tải năm 2008 được duy trì và không ngừng phát triển, các phương tiện vận tải tăng nhanh về số lượng, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân. Vận tải ngoài quốc doanh phát triển nhanh chóng, ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và trở thành thành phần quan trọng góp phần đảm bảo giao thông thông suốt, nhanh chóng và an toàn. Giá cước vận tải đã được các đơn vị hoạt động vận tải điều chỉnh giảm sau khi giá xăng, dầu liên tục giảm trong thời gian qua, tuy nhiên mức giảm không đồng đều và giá xăng, dầu giảm nhỏ giọt nên việc hạ giá cước vận tải tiến triển chậm.

Ước năm 2008, vận chuyển hành khách đạt 14.167 ngàn lượt hành khách, đạt 123,03% kế hoạch năm, tăng 19,57% so năm 2007 và luân chuyển 1.339.272,7 ngàn lượt hk.km, đạt 121,2% kế hoạch, tăng 16,11% so năm 2007.

Sản lượng hàng hóa vận chuyển ước năm 2008 đạt 3.758,98 ngàn tấn, đạt 113,91% kế hoạch, tăng 11,92% so năm trước và luân chuyển 474.100,16 ngàn tấn.km, đạt 116,5% kế hoạch, so năm 2007 tăng 15,18%.

Tổng doanh thu hoạt động Vận tải và Bưu chính Viễn thông ước năm 2008 đạt 1.631,84 tỷ đồng, tăng 34,37% so năm 2007. Trong đó, doanh thu hoạt động Vận tải đạt 854,42 tỷ đồng, chiếm 52,36%, tăng 31,95%; doanh thu hoạt động Bưu chính Viễn thông đạt 777,42 tỷ đồng, chiếm 47,64%, tăng 37,14% so năm 2007.

Ước năm 2008, thuê bao điện thoại cố định phát triển mới trên địa bàn tỉnh đạt 75.898 thuê bao (Viễn thông Lâm Đồng 47.811 thuê bao, Điện lực Lâm Đồng 28.087 thuê bao); thuê bao di động phát triển mới 82.769 thuê bao, trong đó phát triển mạnh nhất là mạng Viettel với nhiều chương trình khuyến mãi hấp dẫn nên đã thu hút được một lượng lớn khách hàng, dự kiến năm 2008 phát triển mới 62.728 thuê bao di động, chiếm 75,79% tổng thuê bao di động phát triển mới trên toàn tỉnh, Điện lực Lâm Đồng phát triển mới 20.003 thuê bao, Viễn thông Lâm Đồng phát triển mới 38 thuê bao; thuê bao internet phát triển mới ước đạt 11.748 thuê bao.

IV/ Tài chính - Ngân hàng

1. Hoạt động tài chính:

Để hoàn thành vượt mức kế hoạch thu ngân sách năm 2008, công tác thu ngân sách  trong những tháng cuối năm được phát động phong trào thi đua nước rút thu thuế. Công tác chi ngân sách thực hiện có hiệu quả chủ trương tiết kiệm nhằm kiềm chế, chống lạm phát theo Quyết định 390/QĐ -TTg ngày 17/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ nhưng vẫn đảm bảo duy trì tốt các hoạt động thường xuyên trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, đảm bảo xã hội, an ninh quốc phòng, đặc biệt  thực hiện kịp thời các khoản chi hỗ trợ cho các đối tượng chính sách, đối tượng khó khăn và chi hỗ trợ các mặt hàng chính sách cho đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa và tăng lương theo chủ trương của Chính phủ.

Bảng 6:   Thu chi ngân sách nhà nước

 

Ước 

% So sánh năm 2008 với

 

Năm 2008

Dự toán

Dự toán

Năm

 

(Triệu đồng)

TW

ĐP

2007

1. Tổng thu ngân sách nhà nước

2.124.375

137,32

111,81

114,24

 Tđó: các khoản thuế phí, lệ phí

1.296.782

107,17

102,11

122,91

2. Tổng thu ngân sách địa phương

3.735.022

148,18

129,90

107,30

 Trong đó thu điều tiết

1.811.040

118,10

112,98

124,80

3. Tổng chi ngân sách địa phương

3.531.570

140,10

122,83

107,13

 Trong đó: 

 

 

 

 

      - Chi xây dựng cơ bản tập trung

505.339

104,30

100,10

92,30

      - Chi thường xuyên

1.703.240

109,40

105,92

110,11

Ước năm 2008, tổng thu ngân sách nhà nước đạt 2.124,37 tỷ đồng, đạt 137,32% dự toán trung ương giao, đạt 111,81% dự toán địa phương, tăng 14,24% so năm 2007; trong đó các khoản thu cân đối ngân sách 1.771 tỷ đồng chiếm 83,37%, đạt 109,66% dự toán địa phương và tăng 19,98% so cùng kỳ; các khoản thu nội địa 1.759,54 tỷ đồng chiếm 82,83%, đạt 109,42% dự toán địa phương và tăng 19,86% so cùng kỳ. Trong các khoản thu nội địa, thu từ kinh tế nhà nước địa phương 1.728,96 tỷ đồng chiếm 98,26%, đạt 110,05% dự toán ĐP và tăng 45,46% so cùng kỳ; thu từ doanh nghiệp nước ngoài 30,58 tỷ đồng đạt 82,65% dự toán địa phương, bằng 98,59% so cùng kỳ; các khoản thu từ đất, nhà 385,83 tỷ đồng đạt 140,30% dự toán địa phương tăng 16,54%.

Tổng thu ngân sách địa phương ước cả năm đạt 3.735,02 tỷ đồng, đạt 148,18% dự toán trung ương và 129,90% dự toán địa phương, tăng 7,30% so năm trước. Trong đó: thu điều tiết đạt 118,10% kế hoạch trung ương và 119,98% kế hoạch địa phương, tăng 24,80% so cùng kỳ; thu trợ cấp theo kế hoạch từ ngân sách trung ương đạt 116,68% kế hoạch, tăng 11,23% so năm 2007.

Tổng chi ngân sách địa phương ước cả năm 2008 thực hiện 3.531,57 tỷ đồng, đạt 140,10% dự toán trung ương, đạt 122,83% dự toán địa phương và tăng 7,13% so năm trước, trong đó chi đầu tư phát triển 830,87 tỷ đồng chiếm 23,52% tổng chi, đạt 163,83 dự toán địa phương và tăng 7,77% so cùng kỳ; riêng chi xây dựng cơ bản tập trung 505,34 tỷ đồng, chiếm 14,31% tổng chi, đạt 100,10% dự toán địa phương và bằng 92,30% so năm trước. Chi thường xuyên 1.703,24 tỷ đồng, chiếm 48,23% tổng chi, đạt 105,92% dự toán địa phương, tăng 10,11% so cùng kỳ; chi về giáo dục, đào tạo tăng 18,77% so cùng kỳ; chi sự nghiệp y tế tăng 17,30% so cùng kỳ; chi quản lý hành chính nhà nước tăng 2,81% so cùng kỳ; chi các chương trình mục tiêu quốc gia tăng 18,05% so cùng kỳ.

2. Hoạt động tín dụng:

Hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát triển. Trong năm 2008, tỉnh đã có thêm 03 cơ sở tín dụng mới: chi nhánh ngân hàng Eximbank; phòng giao dịch Đà Lạt của Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế (chi nhánh Nha Trang); phòng giao dịch Đà Lạt của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông á (chi nhánh Đắk Lắk). Công tác thanh toán và các dịch vụ tiện ích của Ngân hàng được chú trọng; hệ thống máy rút tiền tự động bằng thẻ ATM toàn tỉnh hiện có 65 máy với số lượng thẻ phát hành 137.623 thẻ, đã thiết lập 108 điểm chấp nhận thẻ thanh toán (pos). Về thanh toán trả lương qua tài khoản, hiện đã có 483 đơn vị hưởng lương từ ngân sách nhà nước và 129 đơn vị ngoài nhà nước ký kết hợp đồng với các ngân hàng. 

Một số chính sách của Chính phủ về tiền tệ linh hoạt (thắt chặt lúc lạm phát, nới lỏng lúc giảm phát) đã phát huy tác dụng, kiềm chế được làm phát, ổn định được kinh tế vĩ mô. Đến nay lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn nhìn chung đã dần ổn định và có xu hướng giảm theo mức giảm lãi xuất trần của Ngân hàng Nhà nước. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm các kỳ hạn từ 12%/năm đến 16,92%/năm.

Hoạt động huy động vốn: Ước đến 31/12/2008, số dư vốn huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh là 6.165 tỷ đồng, tăng 23,50% so với đầu năm, so kế hoạch toàn ngành huy động cuối kỳ tăng 22% (tăng 1.098 tỷ đồng). Trong đó, tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu và trái phiếu của dân cư ước đạt 4.685 tỷ đồng, chiếm 75,99% trong tổng nguồn vốn, tăng 34,28% so đầu năm. Các loại tiền thanh toán của các cá nhân, tiền gửi Kho bạc Nhà nước ước đạt 1.480 tỷ đồng, giảm so đầu năm là 23 tỷ (giảm 1,53%) nguyên nhân do Kho bạc Nhà nước và các tổ chức kinh tế rút tiền gửi phục vụ cho hoạt động của các đơn vị Hành chính sự nghiệp, phục vụ sản xuất kinh doanh và dịch vụ.

Hoạt động sử dụng vốn: Tổng dư nợ hữu hiệu (kể cả nợ ODA và nợ khoanh) của các tổ chức tín dụng trên địa bàn ước đến 31/12/2008 là 9.900 tỷ đồng, tăng 19,84% so với đầu năm, trong đó dư nợ của các chi nhánh Ngân hàng Thương mại ước đạt 8.052 tỷ đồng chiếm 81,3% trong tổng dư nợ toàn địa bàn, so đầu năm tăng 18,5%. Trong tổng dư nợ toàn địa bàn, dư nợ trung dài hạn ước 4.383 tỷ đồng, tăng 18,31% so đầu năm; dư nợ ngắn hạn ước 4.380 tỷ đồng, tăng 18,31% so đầu năm.

Về chất lượng tín dụng trong năm 2008: Nợ xấu của hệ thống các TCTD trên địa bàn khoảng 300 tỷ đồng, chiếm 3,03% tổng dư nợ và tăng 104,08% so với đầu năm.

V/ Một số lĩnh vực xã hội

1. Dân số và lao động:

Dân số trung bình năm 2008 tỉnh Lâm Đồng ước đạt 1.216.618 người. Trong đó dân số thành thị chiếm 37,52%. Mật độ dân số tăng từ 123 người/km2 năm 2007 lên 125 người/km2 năm 2008.

Trong năm 2008, tỉnh Lâm Đồng có khoảng 28.100 người được giải quyết việc làm, trong đó lao động ngoài tỉnh 27.200 người, lao động đi làm việc ngoài tỉnh 720 người và xuất khẩu lao động 180 người.

2. Giáo dục - Đào tạo:

* Kết quả giáo dục năm học 2007-2008:

 Năm học 2007-2008, tuy còn một số mặt hạn chế như: chất lượng giáo dục toàn diện chưa đồng đều, nhất là các trường vùng sâu, vùng dân tộc còn thấp, cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu dạy và học... nhưng toàn ngành đã khắc phục khó khăn hoàn thành năm học 2007-2008 và cơ bản đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.

Giáo dục mầm non: Trong năm học 2007-2008 có 31.831 trẻ bán trú, đạt tỷ lệ 62,8% so với tổng số trẻ ra lớp, tăng 3.681 trẻ (tăng 13%) so với cùng kỳ năm học trước. Số trẻ được theo dõi sức khỏe và biểu đồ thường xuyên chiếm tỷ lệ 94%; tỷ lệ suy dinh dưỡng ở nhà trẻ còn 12,1%, giảm 1,3% so với cùng kỳ năm học trước. Đến cuối năm học 2007 có 7.091 cháu đi nhà trẻ, tăng 49 cháu (tăng 0,7%) và 40.173 cháu đi mẫu giáo, giảm 1.401 cháu (giảm 3,3%) so với cùng kỳ năm học trước.

Bậc Tiểu học: Tổng số có 120.730 học sinh giảm 1,9% so với năm học trước. Học sinh tiểu học tiếp tục giảm do phát triển dân số đã đi vào ổn định.

Bậc Trung học: Trung học cơ sở có 94.923 học sinh giảm 1,6% so với năm học trước. THPT: 47.347 học sinh tăng 1% so với năm học trước.

* Kết quả kỳ thi tốt nghiệp phổ thông và bổ túc văn hóa năm học 2007-2008:

- Ngành học phổ thông: Đối với lớp 5 và lớp 9 năm nay không tổ chức thi tốt nghiệp mà dựa vào kết quả kiểm tra chất lượng học kỳ II. Toàn tỉnh có 24.682 học sinh lớp 5 và 21.749 học sinh lớp 9 dự kiểm tra học kỳ II, (lớp 5 giảm 1,26% và lớp 9 tăng 6,1% so với số học sinh năm học trước). Số học sinh đã hoàn thành chương trình cấp Tiểu học là 24.106 học sinh, đạt 97,67% và cấp THCS là 21.389 học sinh đạt tỷ lệ tốt nghiệp 98,34%. Ngành bổ túc văn hóa có 137 học sinh THCS dự thi kiểm tra học kỳ II và được công nhận hoàn thành là 129 học sinh đạt tỷ lệ 94,1%.

Qua 2 đợt thi, trong tổng 16.125 học sinh dự thi tốt nghiệp trung học phổ thông và 1.809 học sinh dự thi tốt nghiệp bổ túc trung học phổ thông có 77,72% số học sinh tốt nghiệp THPT và 29,57% số học sinh tốt nghiệp bổ túc THPT.

 Công tác đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi THPT năm học 2007-2008 toàn tỉnh có 60 học sinh dự thi học sinh giỏi toàn quốc, trong đó có 26 em đạt giải, chiếm tỷ lệ 43,3% (giảm 6 giải so với kỳ thi năm trước). Đồng thời Sở Giáo dục-Đào tạo tỉnh Lâm Đồng cũng đã tổ chức khen thưởng kịp thời cho các em đã đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh.

Tình hình học sinh bỏ học: Ngành giáo dục triển khai nhiều biện pháp tích cực để duy trì sỉ số học sinh, hạn chế tối đa tình trạng học sinh bỏ học như: đến từng nhà động viên các em trở lại trường, lớp; phối hợp chính quyền địa phương và các tổ chức hội, đoàn thể động viên gia đình cho con đi học; đồng thời các trường học tổ chức phụ đạo riêng cho các học sinh yếu kém để các em có thể theo kịp chương trình. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó do học lực yếu không theo kịp chương trình (chiếm 67,4% số học sinh bỏ học) nên số học sinh bỏ học có xu hướng gia tăng ở một số địa phương so với năm học trước, nhất là ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Theo số liệu của Sở Giáo dục - Đào tạo Lâm Đồng, số học sinh bỏ học ở các cấp: Tiểu học: có 1.691 học sinh (tỷ lệ 1,42%), Trung học cơ sở: có 2.721 học sinh (tỷ lệ 2,79%), Trung học phổ thông: 1.081 có học sinh (tỷ lệ 2,22%).

* Tình hình đầu năm học 2008-2009:

Bước vào năm học mới 2008 - 2009, toàn tỉnh có 611 trường, tăng 07 trường so với năm học trước, trong đó THPT tăng 02 trường và dân tộc nội trú tăng 02 trường, mẫu giáo và mầm non tăng 03 trường. Số học sinh đầu năm học 2008-2009 có 314.637 học sinh các cấp, tăng 0,3% so với năm học trước; cụ thể các ngành học, bậc học huy động như sau:

Giáo dục mầm non có 48.460 cháu ở lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo được ra lớp so với năm học 2007-2008 tăng 2,5%. Chia ra số cháu ở các nhóm trẻ là: 6.445 cháu, giảm 9,1% so với cùng kỳ và chiếm tỷ lệ 11% so với dân số trong độ tuổi từ  0 đến 2 tuổi và số cháu đi học mẫu giáo có: 42.015 cháu, tăng 4,6% so với năm học trước và đạt tỷ lệ cháu đi mẫu giáo so với dân số trong độ tuổi từ  3 đến 5 tuổi khoảng 74%.

Giáo dục phổ thông cả 3 cấp có 266.177 học sinh, giảm 0,04% so với năm học 2007-2008, trong đó: cấp tiểu học có 119.366 học sinh (giảm 1,8% so với năm học trước), cấp trung học cơ sở 97.569 học sinh (tăng 0,2% so với năm học trước) và cấp trung học phổ thông có 49.242 học sinh (tăng 4% so với năm học trước).

Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên tiếp tục được bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, về sử dụng thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin vào phương pháp dạy học. Đội ngũ giáo viên đáp ứng được nhu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục. Số lượng giáo viên được phân công đảm bảo đủ số lượng theo nhu cầu phát triển và đủ về cơ cấu bộ môn, các loại hình ở từng bậc học, ngành học, kể cả vùng sâu, vùng dân tộc và các trường mới thành lập.

Đầu năm học 2008-2009, toàn tỉnh có 619 cô nuôi dạy trẻ và 1.941 giáo viên mẫu giáo; tổng số giáo viên phổ thông có 12.258 người, trong đó giáo viên tiểu học 5.127 người, giáo viên THCS  4.670 người và giáo viên THPT là  2.461 người. So với định biên của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì tỉnh Lâm Đồng thừa 254 giáo viên cấp tiểu học, thừa 91 giáo viên cấp THCS và thiếu 51 giáo viên cấp THPT. Nguyên nhân của tình trạng này là do số lượng học sinh đến độ tuổi đi học giảm dần chủ yếu do nhiều năm  thực hiện chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình. 

Tình hình thực hiện phổ cập Trung học cơ sở được tăng cường chỉ đạo, thực hiện và có chuyển biến khá tốt ở các địa phương. Tính đến nay, toàn tỉnh đã có 9/12 huyện, thị, thành phố (tỷ lệ 75%); 133/145 (đạt tỷ lệ 91,7%) xã, phường, thị trấn được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.

* Công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trên địa bàn:

Kỳ thi đại học, cao đẳng năm học 2008-2009 diễn ra trật tự, an toàn và đúng quy chế. Tổng số thí sinh dự thi đại học là 13.289 người tăng 2,85% so với năm học trước. Ngoài ra có 1.791 hồ sơ đăng ký để xét tuyển hệ đại học, 1.905 hồ sơ đăng ký để xét tuyển hệ cao đẳng; 5.098 hồ sơ đăng ký để xét tuyển hệ trung học chuyên nghiệp. Số tuyển mới vào học hệ đại học chính quy là 4.420 sinh viên; học hệ cao đẳng chính quy là 798 sinh viên và 2.448 học sinh học hệ trung học chuyên nghiệp.

3. Công tác đảm bảo y tế, vệ sinh ATTP:

Công tác y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2008, đã tập trung tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh trên địa bàn toàn tỉnh, chủ động phòng chống dịch cúm tuýp A H5 N1 nên trong năm không có dịch bệnh xảy ra. Bệnh sốt rét đã phát hiện và điều trị 467 trường hợp, tăng 11% so với cùng kỳ 2007, trong đó có 04 trường hợp sốt rét ác tính, không có trường hợp tử vong do sốt rét. Tổng số lam xét nghiệm 115.146, phát hiện có 381 lam có ký sinh trùng sốt rét, tăng 10 trường hợp so với năm 2007.

Bệnh sốt xuất huyết từ đầu năm đến nay có 143 trường hợp mắc sốt xuất huyết, giảm 47 trường hợp so với cùng kỳ năm 2007, không có trường hợp tử vong do sốt xuất huyết. Tiếp tục duy trì công tác giám sát côn trùng tại 08/12 huyện, thị xã và thành phố Đà Lạt, các chỉ số côn trùng đều dưới ngưỡng cho phép.

Bệnh phong đã tổ chức khám cho 398.168 lượt người, phát hiện 04 bệnh nhân phong mới, tổ chức đa hoá trị liệu cho 06 trường hợp, toàn tỉnh đang quản lý 225 bệnh nhân phong, chăm sóc tàn phế cho 173 bệnh nhân phong. Bệnh lao phát hiện 451 trường hợp mắc lao mới, tử vong do lao là 12 trường hợp; hiện toàn tỉnh quản lý 414 bệnh nhân lao.

Công tác phòng chống HIV/AIDS phát hiện 124 trường hợp nhiễm mới, số nhiễm HIV tích lũy tính đến nay là 1.285 trường hợp. Có 43 trường hợp mắc AIDS mới, số bệnh nhân AIDS tích lũy là 318 trường hợp, trong đó 17 trường hợp tử vong do AIDS mới, tử vong do AIDS tích lũy là 226 trường hợp. 

Công tác tiêm chủng mở rộng tiếp tục được tăng cường, đã tổ chức tiêm chủng đầy đủ cho 23.471 trẻ em dưới 1 tuổi, đạt 95,5% kế hoạch, tiêm phòng uốn ván cho 22.382 phụ nữ có thai, đạt 98,7% kế hoạch và tiêm phòng uốn ván cho 14.442 phụ nữ tuổi sinh đẻ đạt 98,5% kế hoạch.

Công tác bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em- kế hoạch hóa gia đình và phòng chống suy dinh dưỡng tiếp tục được duy trì. Tổ chức lập phiếu quản lý thai nghén cho 30.757 trường hợp đạt tỷ lệ 98,2%; số phụ nữ đẻ được khám thai 3 lần trở lên là 15.561 trường hợp đạt tỷ lệ 81,6%; số phụ nữ đẻ tại cơ sở y tế là 17.212 trường hợp đạt tỷ lệ 99,3%; có 50 trường hợp mắc tai biến sản khoa, tăng 17 trường hợp so với cùng kỳ 2007; có 03 trường hợp tử vong mẹ. Khám phụ khoa 141.126 trường hợp, điều trị phụ khoa 61.141 trường hợp, đặt dụng cụ tử cung mới cho 6.831 người, 22.802 người đang dùng thuốc tránh thai, 8.705 người dùng thuốc tiêm tránh thai, 2.216 người cấy thuốc tránh thai, triệt sản mới cho 373 trường hợp (nam: 07, nữ: 366).

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh không xảy ra ngộ độc thực phẩm. Trong năm đã tổ chức các đợt kiểm tra liên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn toàn tỉnh với 286 cở sở được kiểm tra; trong đó có 89 cơ sở vi phạm với số tiền xử phạt là 75,8 triệu đồng. Đồng thời thực hiện kiểm tra giá thuốc tại 26 cơ sở kinh doanh thuốc, lập biên bản và xử phạt 11/26 cơ sở. Trong tháng 10/2008 đoàn thanh tra của Bộ Y tế và Cục An toàn vệ sinh thực phẩm cùng Sở Y tế Lâm Đồng đã tiến hành kiểm tra phát hiện, thu hồi và xử lý 14.600 hộp sữa nhiễm melamine tại huyện Đức Trọng và Thị xã Bảo Lộc.

 Hiện nay ngành y tế tỉnh Lâm Đồng tiếp tục triển khai chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo theo quyết định số 139/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Đối tượng thuộc hộ nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế là 383.695 thẻ khám chữa bệnh miễn phí. Knh phí khám chữa bệnh cho người nghèo từ đầu năm đến nay trên 19 tỷ đồng (vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Thụy điển là 2,2 tỷ đồng). Tiếp tục triển khai khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, người già từ 85 tuổi trở lên khám điều trị tại các cơ sở y tế nhà nước tại Lâm Đồng. Ngoài ra còn phối hợp với Hội bảo trợ bệnh nhân nghèo TP Hồ Chí Minh và Bệnh viện mắt TP Hồ Chí Minh tổ chức phẫu thuật mắt miễn phí cho 110 trường hợp tại Bệnh viện II Lâm Đồng, tổng kinh phí là 410 triệu đồng.

4. Hoạt động văn hóa - tuyên truyền:         

Trong năm 2008, công tác thông tin-tuyên truyền toàn tỉnh đã tập trung lực lượng từ tỉnh đến cơ sở, tiếp tục tổ chức các hoạt động phục vụ các sự kiện chính trị, các ngày lễ lớn của đất nước, của địa phương, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước như: Chào mừng ngày thành lập Đảng lần thứ 78 (3/02/1930-3/02/2008); 33 năm ngày giải phóng thành phố Đà Lạt (3/4/1975-3/4/2008); 33 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975- 30/4/2008); Ngày Quốc tế lao động 1/5; kỷ niệm 118 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890- 19/5/2008); 60 năm ngày Bác Hồ ra lời kêu gọi thi đua ái Quốc (11/6/1948– 11/6/2008); 61 năm ngày thương binh liệt sỹ (27/7/1947-27/7/2008); 63 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 02/9 và kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng và các ngày lễ lớn trong năm; kỷ niệm 115 năm Đà Lạt hình thành và phát triển.

Tổ chức Hội Hoa Xuân, tổ chức hội chợ Xuân Đà Lạt 2008, tổ chức Hội báo xuân tại thành phố Đà Lạt và thị xã Bảo Lộc, tổ chức Lễ tôn vinh những người có công đóng góp cuộc vận động toàn dân tham gia xóa nhà tạm cho các hộ nghèo...

Ngành văn hóa đã và đang tổ chức Lễ hội Văn hoá trà 2008 tại thị xã Bảo Lộc và Tuần lễ văn hoá kỷ niệm 115 năm Đà Lạt hình thành và phát triển (1893-2008) từ ngày 17 đến 21/12/2008 tại thành phố Đà Lạt. Tuần lễ văn hóa Đà Lạt sẽ gồm những hoạt động phong phú như: triển lãm Đà Lạt xưa và nay; triển lãm văn hóa dân tộc bản địa; triển lãm các đồ án, mô hình, dự án kinh tế trọng tâm; ngày hội về nguồn; ngày hội rau hoa Đà Lạt; đêm hội Đà Lạt phố; ngày hội văn hóa thể thao dân tộc; ngày hội vì một thành phố không rác...Điểm nhấn của Tuần lễ văn hóa Đà Lạt là đêm hội kỷ niệm 115 năm Đà Lạt, với chương trình diễn nghệ thuật “Sắc thắm cao nguyên” tổ chức vào ngày 21/12.

Để tuyên truyền những ngày trọng đại trên, trong năm 2008 toàn tỉnh đã cắt dán và kẻ vẽ trên 2.200 m2 panô, 5.300 m băng rôn, treo hàng ngàn cờ phướn, cờ chuối các loại. Các đội thông tin lưu động, chiếu bóng lưu động đã tích cực phục vụ các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc với trên 100 buổi biểu diễn nghệ thuật và 312 buổi chiếu bóng, đã thu hút trên 310 nghìn lượt người xem.

Nhằm đưa các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa đi vào kỷ cương, nề nếp theo quy định của pháp luật, xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh trên địa bàn toàn tỉnh. Ngành văn hóa thông tin phối hợp với các ngành chức năng tăng cường công tác kiểm tra. Kết quả trong năm 2008 đã tổ chức thanh, kiểm tra 969 cơ sở hoạt động văn hoá, dịch vụ văn hoá, trong đó số cơ sở vi phạm là 161 cơ sở, xử phạt và thu về cho ngân sách nhà nước 60 triệu đồng. Tiến hành cấp và đổi mới 1.329 các loại giấy phép, trong đó gồm giấy phép karaokê, giấy phép quảng cáo, giấy phép xuất bản, giấy phép biểu diễn nghệ thuật. 

Năm 2008 hoạt động Bảo tàng mở cửa thường xuyên phục vụ khách đến tham quan, năm 2008 đón  khoảng trên 5.450 khách đến với Bảo tàng. Thư viện tỉnh hiện có trên 159 nghìn bản sách báo các loại, cấp thẻ mới 1.157 thẻ và phục vụ trên 25 ngàn lượt bạn đọc đến thư viện. Bên cạnh đó đã phân bổ sách tài trợ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho thư viện các huyện là 4.850 bản, bổ sung sách báo cho các điểm Bưu điện văn hóa xã.

Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”: Tiếp tục chú trọng nâng cao chất lượng phong trào và triển khai rộng khắp trong toàn tỉnh. Năm 2008 toàn tỉnh có 182 nghìn hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa và 609 thôn, khu phố văn hóa, có 382 câu lạc bộ gia đình văn hoá đã góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Tỷ lệ xã có điểm bưu điện văn hóa và trạm bưu điện đạt 97,4%, tỉ lệ xã có nhà văn hóa xã 33%, tỉ lệ xã có tủ sách pháp luật đạt 99,1%, tỉ lệ xã có hệ thống loa truyền thanh đến thôn là 87,8%. Qua đó góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, tạo môi trường văn hóa vui tươi, lành mạnh, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, khích lệ mọi người hăng hái thi đua lao động sản xuất.

5. Hoạt động thể dục-thể thao:

Trong năm 2008, hoạt động thể dục- thể thao Lâm Đồng tiếp tục hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, với phương châm đưa thể dục thể thao về cơ sở nhằm phát triển phong trào TDTT quần chúng rộng khắp. Đồng thời đẩy mạnh duy trì tập luyện, tham gia thi đấu các giải thể thao thành tích cao trong nước và trong tỉnh. Từ đầu năm đến nay các hoạt động TDTT Lâm Đồng đã tham gia và tổ chức một số hoạt động gồm:

Thể thao thành tích cao: Tham gia 41 giải quốc tế, quốc gia và khu vực với 15 bộ môn và 280 vận động viên thi đấu. Kết quả đạt được 97 huy chương các loại (26 huy chương vàng, 29 huy chương bạc, 42 huy chương đồng), tăng 07 huy chương so với năm 2007 (HCV: 3; HCB: 4).

Thể dục thể thao quần chúng: Phong trào thể dục thể thao ở các huyện, thị xã Bảo Lộc, thành phố Đà Lạt tiếp tục được duy trì và tổ chức nhiều hoạt động thi đấu thể thao chào mừng các ngày lễ lớn, gồm các môn : Võ thuật cổ truyền, bóng bàn, cầu lông, bóng đá, bóng chuyền, cờ tướng, quần vợt, điền kinh, đẩy tạ, kéo co… Trong năm đã tổ chức  được 27 giải cấp tỉnh của 15 bộ môn, thu hút trên 6 nghìn lượt vận động viên tham gia thi đấu. 100% lực lượng vũ trang tham gia rèn luyện thân thể. 100% trường học đưa bộ môn giáo dục thể chất vào chương trình giảng dạy. Ngoài ra duy trì việc tập luyện các lớp năng khiếu và hỗ trợ công tác chuyên môn cho các đơn vị cơ sở để tổ chức các giải thi đấu.

6. Tình hình đời sống dân cư và giúp đỡ các đối tượng chính sách, đối tượng khó khăn:

Trong năm 2008, kinh tế- xã hội tỉnh Lâm Đồng tiếp tục duy trì ổn định và phát triển; các chính sách xã hội được các cấp, các ngành triển khai thực hiện mang lại hiệu quả thiết thực, nhất là đối với người nghèo, vùng đồng bào dân tộc, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Tuy thời gian qua tình hình giá cả thị trường có nhiều biến động, nhất là giá xăng dầu, giá vàng, giá vật liệu xây dựng, tình hình lũ lụt ở một số địa phương trong tỉnh trong thời gian vừa qua ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất cũng như đời sống của đại bộ phận dân cư.

Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh không xảy ra tình trạng thiếu đói giáp hạt trong nông dân. Trong dịp Xuân Mậu Tý 2008, UBND tỉnh Lâm Đồng đã chi 5,5 tỷ đồng để thăm hỏi, tặng quà các đối tượng chính sách, mẹ Việt Nam Anh hùng, cán bộ cách mạng lão thành, đối tượng bảo trợ xã hội. Ngoài ra, UBND tỉnh còn chi tiền mặt hỗ trợ ăn tết với số tiền là 4,8 tỷ đồng. Tổng kinh phí chi trợ cấp Tết Mậu Tý 2008 cho thăm hỏi, trợ cấp, giúp đỡ các đối tượng chính sách, đối tượng khó khăn và các đối tượng khác trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng là 10,3 tỷ đồng, tương đương so với Tết Đinh Hợi 2007. Tình hình thiệt hại do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới, bão số 4, số 10 kéo theo mưa lớn cục bộ, nên phải xã lũ hồ Thuỷ điện Đa Nhim  gây thiệt hại trong năm 2008 khoảng 15 tỷ đồng và chết 1 bé trai 14 tuổi đi học về nước lũ cuốn trôi. 

 Phong trào đền ơn đáp nghĩa ”Uống nước nhớ nguồn” ngày càng được quan tâm thiết thực hơn cả về vật chất lẫn tinh thần. Nhân kỷ niệm 61 năm ngày thương binh liệt sỹ (27/7/1947-27/7/2008), các đối tượng chính sách được các cấp, các ngành, các đơn vị trong tỉnh quan tâm thăm hỏi tặng quà với tổng kinh phí trên 1 tỷ đồng.

Theo số liệu của Sở Lao động- TBXH tỉnh Lâm Đồng thì hiện toàn tỉnh còn 27.400 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 10,5%, giảm 5,47% hộ (12.935 hộ) so với đầu năm, trong đó số hộ nghèo đồng bào dân tộc còn 17.250 hộ, chiếm tỷ lệ 33%, giảm 3.018 hộ, tương ứng giảm 9,74%.

Năm 2008 tỉnh lâm Đồng còn 3.558 hộ nghèo đang ở nhà dột nát, tạm bợ chủ yếu tại các huyện vùng sâu, vùng xa như Cát Tiên, Đạ Tẻh, Đam Rông...Đây là năm thực hiện cuộc vận động “Toàn xã hội tham gia xoá nhà dột nát cho các hộ nghèo”, điểm nổi bật trong năm là tổ chức đêm tôn vinh “Những tấm lòng vàng Lâm Đồng năm 2008” (25/7/2008) ủng hộ với số tiền là 65,4 tỷ đồng; tính đến ngày 20/11/2008 tổng số tiền các đơn vị, cá nhân ủng hộ đã nộp về quỹ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng là 32,24 tỉ đồng (tương đương với 3.200 căn nhà), trong năm 2008 với số tiền quyên góp trên được tiến hành xây mới hoàn thành 1.583 căn và bàn giao cho hộ nghèo sử dụng.

Ngoài ra, đối với hộ nghèo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn được hỗ trợ sản xuất, trợ cước vận chuyển hàng nông sản, vật tư 1,8 tỷ đồng, trợ giá giống cây trồng 4,5 tỷ đồng, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm 900 triệu đồng. Cấp cho 2.605 em học sinh, sinh viên là con em đồng bào dân tộc thiểu số đang theo học tại các trường với số tiền 2.756,4 triệu đồng. Cấp 1.021 tấn muối Iốt cho 204.198 nhân khẩu và 85.720 lít dầu hoả cho 17.144 hộ, tổng trị giá 3,6 tỷ đồng. Chương trình 135 xây dựng hoàn thành 7 hạng mục. Chương trình 134 khoan xong 18 giếng nước mới, nâng cấp 6 hạng mục nước tự chảy tại huyện Di Linh, Lâm Hà, Bảo Lâm, đào xong 2.081 giếng nước, xây xong 459 bể chứa nước; giải ngân 15,55 tỷ đồng. Chương trình định canh định cư đã có 7 điểm thực hiện với số vốn 813 triệu đồng.   

Vấn đề môi trường, bảo vệ môi sinh tiếp tục được duy trì sạch sẽ, vùng thành thị xử lý tốt lượng rác thải hàng ngày, không có tình trạng ô nhiễm hồ, sông suối, không có tình trạng cháy rừng nguy hiểm. Đặc biệt thành phố Đà Lạt đã được đầu tư công trình xử lý nước thải, trong dịp Lễ kỷ niệm Đà Lạt 115 năm hình thành và phát triển (diễn ra từ ngày 17-21/12/2008), tiếp tục được đầu tư trên 8 tỷ đồng để chỉnh trang bộ mặt thành phố như: trải bờ tường nhựa các con đường khu trung tâm; trang trí đường phố, công viên với các tháp hoa; bố trí thêm thùng rác công cộng. Đối với khu vực nông thôn từ năm 1997 đến nay các chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và VSMT nông thôn đầu tư xây dựng được 33 công trình nước tập trung (26 công trình tự chảy, 6 công trình tự bơm, 1 công trình tự chảy+bơm) 1.993 nhà vệ sinh, 109 chuồng trại, 111 Biogas và 2.213 công trình khác, riêng năm 2008 xây dựng mới 3 công trình và sửa chữa nâng cấp 2 hệ thống cấp nước tập trung, xây nhà vệ sinh vùng nông thôn trị giá 5,352 tỷ đồng. Nhìn chung môi trường sống, sức khoẻ của đại bộ phận người dân Lâm Đồng đang ngày càng được chú trọng.

7. Tình hình  an toàn giao thông và trật tự an toàn xã hội:      

Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 05/2008/NQ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ nhằm tổ chức lại các tuyến xe buýt, tăng cường công tác quản lý về hoạt động tắcxi, xe buýt, xe khách. Các ngành, các cấp, các địa phương đã có nhiều cố gắng trong công tác tăng cường phổ biến pháp luật về trật tự an toàn giao thông, kiểm soát và xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm, nhằm kiềm chế tai nạn giao thông nên tai nạn giao thông đã giảm về cả 3 mặt số vụ tai nạn, số người chết và số người bị thương. Tuy nhiên tình hình trật tự an toàn giao thông vẫn diễn biến phức tạp nhất là các địa bàn đông dân cư, địa bàn có đường quốc lộ, tỉnh lộ đi qua. Nguyên nhân gây tai nạn nhiều nhất vẫn là chạy quá tốc độ và vượt xe trái quy định. Tính từ đầu năm đến ngày 31/11/2008 (theo số liệu Sở Công An) trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 179 vụ tai nạn giao thông làm chết 178 người và bị thương 99 người. So với cùng kỳ năm 2007, số vụ tai nạn giao thông giảm 18 vụ (giảm 9,14%), số người chết giảm 35 người (giảm 16,43%), số người bị thương giảm 34 người (giảm 25,56%). Riêng trong tháng 11 xảy ra 20 vụ tai nạn giao thông, làm chết 17 người, bị thương 14 người.

Công tác phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội trên địa bàn tỉnh tiếp tục được tăng cường, chủ động nắm tình hình, triển khai đồng bộ các biện pháp đảm bảo an ninh, làm tốt công tác tuyên tuyền, phổ biến giáo dục, phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc kết hợp với việc đấu tranh phòng chống các loại tội phạm và tệ nạn xã hội tại các địa phương; đồng thời tiếp tục thực hiện công tác tập trung các đối tượng lang thang nhất là địa bàn thành phố Đà Lạt và Thị xã Bảo Lộc. Vì vậy, nhìn chung tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong năm 2008 tiếp tục được giữ vững./.