Sau ngày thoái vị (30/8/1945), vua Bảo Đại ra Hà Nội làm cố vấn cho Chính phủ VNDCCH, tôi được chuyển từ Đại Nội qua hầu Đức Từ Cung ở cung An Định. Công việc của tôi rất đơn giản, nghe ngóng tin tức hoạt động của ông Cố vấn ở Hà Nội để báo với Đức Từ, hoặc khi cần thì nghe Đức Từ nói và viết thư cho ông Cố vấn. Đức Từ nhận được thư của Bảo Đại nói "ra ngoài này được cụ Hồ thương như con" Đức Từ rất mừng. Đến tháng 3/1946 ông Cố vấn sang ngoại giao ở Trùng Khánh thì bặt tin. Không ngờ đến đầu năm 1949 lại có tin ông Bảo Đại quay về làm "Quốc trưởng" cho chính phủ quốc gia do người Pháp lập nên để đương đầu với kháng chiến, Đức Từ không hiểu vì sao lại có sự thể ấy. Ông Phan Văn Giáo (người sau này được Bảo Đại cho làm Thủ Hiến Trung Kỳ và rất mất lòng dân) báo cho Đức Từ biết cuối tháng tư năm 1949 "Đức" Bảo Đại sẽ về chấp chánh nhưng ông không chịu về Sài Gòn, cũng không chịu về Huế mà đòi lên Đà Lạt. Đức Từ liền phái tôi theo ông Giáo lên Đà Lạt nghênh đón và phục vụ Bảo Đại.
Ngày 28/4/1949, chiếc máy bay của Bảo Đại xuất phát từ Singapore hạ cánh xuống phi trường Liên Khương. Tôi theo ông Giáo ra đón ông tận cầu thang máy bay. Bảo Đại về lại ngôi biệt điện mà người Pháp đã dành cho ông từ khi ông mới lên làm vua.
Về đến Đà Lạt ông tiếp khách suốt ngày, tiếp xong thì đi bắn chim đi câu cá. Lúc này có một phái đoàn đại diện cho số người Nam vô dân Tây đến xin Bảo Đại cho họ được hưởng một quy chế riêng; đại diện Pháp là Cao ủy Pignon đến gặp bàn việc thực hiện thỏa ước élysée tổ chức một chính phủ quốc gia do Bảo Đại làm "Quốc Trưởng" kiêm giữ luôn ghế Thủ tướng... và cựu thần, hoàng thân, quốc thích lên thăm viếng rất đông.
Lúc này Hoàng hậu Nam Phương và các hoàng tử, công chúa con ông đang còn ở Pháp. Ông Phan Văn Giáo một người có "máu 35" nổi tiếng ở Huế, đem dâng cho Đức Bảo Đại một cô gái tên là Phi Anh, em gái của Phi Hoa vốn đã là người tình của Giáo. Ngay sau đó, nghe tin Bảo Đại về chấp chánh, các nhân tình cũ của ông như Mộng Điệp, Jenny cũng bay lên Đà Lạt với ông luôn. Trong ba người tình ấy, bà Mộng Điệp được ông sủng ái nhất và bà cũng có uy với ông nhất. Bảo Đại cho Mộng Điệp ở một ngôi nhà riêng gần Dinh số 1. Hai bà kia ở nhà bên ngoài.
Cuối năm 1949, Chính phủ Bảo Đại bỏ tiền mua thêm Dinh số 3 dùng làm nơi làm việc cho Đổng Lý Văn Phòng Nguyễn Đệ. Dinh rất lớn nên cho đặt luôn Võ phòng đó. (Về sau, Chính phủ của Bảo Đại dọn về Sài Gòn, Dinh số 3 dành làm biệt điện cho Bảo Đại và gia đình ông).
Lúc này mọi người chú tâm vào việc tổ chức bộ máy hành chính ở ba kỳ. Một vấn đề nổi cộm là các tỉnh cao nguyên trong đó có thành phố Đà Lạt thì thuộc ai? Trước khi người Pháp, qua các dân tộc Tây Nguyên đều là thần dân của triều Nguyễn, nay trên danh nghĩa Pháp trả lại độc lập cho chính phủ quốc gia của Bảo Đại thì Bảo Đại phải có quyền ở những tỉnh ấy. Được sự đồng ý của Cao ủy Pignon, Bảo Đại cho thiết lập Hoàng triều cương thổ trực thuộc "Quốc trưởng Bảo Đại" (Sắc luật số 6 ký ngày 15/4/1950). Cuối tháng 5/1950 tôi được theo Bảo Đại lên Ban Mê Thuột dự lễ nhận tượng trưng đất Hoàng triều cương thổ (gồm Đồng Nai Thượng, Lâm Viên (kể cả Đà Lạt), Đắc Lắc, Pleiku, Kontum...). Trong dịp này tôi được dự một cuộc tế thần của người Tây Nguyên hết sức thú vị.
Lễ được bắt đầu từ lúc chập tối. Lúc ấy, tất cả dân làng gồm đàn ông, đàn bà, trẻ già, trai gái ngồi chung quanh một con trâu bị trói chặt vào chân một cây cột bằng tre, lớn, cao, trên đọt cây còn giữ nguyên cành lá. Cột được tô vẽ trang điểm thật đẹp, có đính những vòng hoa hây hẩy trước gió. Con trâu đen, vạm vỡ, sừng rất rỗng, đầu cúi xuống, bốn chân cào cào xuống tỏ vẻ rất bực bội. Trời tối, người ta nổi lửa từ bốn phía (tượng trưng cho tứ phương?). Ngọn lửa cháy dần dần và bốc cao như muốn với lên đến trời xanh. Lửa không thiêu hết mọi vật mà dâng ngọn đến cao xanh, chứng tỏ con người đang chịu thần phục sẵn sàng tôn sùng thượng đế.
Ông Bảo Đại được mời ngồi vào vị trí danh dự, ở giữa các bô lão. Đêm xuống khắp trời đất. Cuộc múa nhảy bắt đầu. Các điệu múa ăn nhịp với tiếng trống, tiếng cồng, tiếng chiêng và tiếng vỗ tay của đàn bà và trẻ con. Tay cầm giáo nhọn, cánh tay đeo mộc, các thanh niên nhảy theo các điệu khi lâm chiến họ lao vào đâm con trâu mạnh mẽ như muốn trút hết sự căm thù đã chồng chất trong lòng. Bởi vì con trâu hiền lành này là một con vật tế thần, từ buổi chiều nó đã được xem là một ác thần, tượng trưng cho nguồn gốc gây ra biết bao đau khổ cho người sơn cước. Giết con trâu - giết ác thần để dâng cho Phúc thần, cầu mong sự chiếu cố giúp đỡ.
Con trâu bị đâm nhiều nhát, bị lửa đốt bốn chung quanh - tượng trưng cho lời cầu khẩn. Đến sáng hôm sau, con trâu chết, tượng trưng cho những cái ác đã được ngăn chặn.
Một kẻ hành lễ mang đến dưới chân người chủ lễ một quả bầu khô rộng và một con gà trống màu trắng. Ông già chủ lễ quỳ xuống, cắt tiết gà, mổ lấy tim và hứng tiết vào trong quả bầu. Người tù trưởng hai tay đưa cho Bảo Đại một cái cần cong bằng trúc và mời Bảo Đại hút rượu đựng trong một cái hũ và nhắm một miếng gan heo nướng. Bảo Đại vừa nhắm xong, lập tức tất cả các bô lão đứng lên và lần lượt quàng vào bên tay trái Bảo Đại một chiếc vòng đồng có khắc dấu hiệu riêng của họ, nói lên sự giao hảo, phục lòng. Quàng vòng đồng xong, mọi người tung hô vạn tuế, vạn tuế.
Cuối cùng, mọi người trở lại chỗ cũ. Viên chủ tế rất cao giọng xướng:
"Hỡi thần linh! Hãy công nhận cha mà chúng con đã lựa chọn.
Hãy chấp nhận Ngài mà chúng con đã kính dâng buổi lễ này,
bằng chiếc hũ rượu có tiết gà trống bạch này.
Thần của núi rừng che chở cho chúng con.
Thần sông nước che chở cho chúng con.
Thần săn bắn che chở và đứng về phía chúng con
Xin thần gió thanh lọc sự giao kết của chúng con.
Xin thần lửa làm sự giao hảo sáng chói như chớp.
sự đồng minh mạnh như sấm bão.
Xin cho chúng con sự trường thọ vô cùng.
Xin cho tóc chúng con bạc trắng phau trước khi đến với Ngài.
Hỡi thần linh! Hỡi thần linh!
... Xin cho chúng con hưởng thụ thịt của con vật hy sinh này và hưởng thụ huyết của con trâu này
vào sáng nay.
Sống lâu, mạnh khỏe, hạnh phúc
Chúng con nguyện trung thành giữa chúng con cho đến đời con, đời cháu chúng con.
Bởi đó là lời thần dạy (...)
Bài văn tế rất dài, chúng tôi nghe qua lời phiên dịch tiếng Pháp của một nhân viên cao cấp người sơn cước.
Sau lễ tế trâu, Bảo Đại và đoàn tùy tùng được mời vào nghỉ trong một ngôi nhà rông lợp tranh, các cột bằng gỗ teck. Trong nhà trang trí nhiều tác phẩm nghệ thuật vẽ mặt trời, mặt trăng, hình bò cạp, cá... Hình mặt trời khi nào cũng đẹp và lớn hơn cả. ở các chân cột nhà có treo nhiều giá đựng binh khí, chậu đồng. Bảo Đại được mời ngồi chung quanh bếp lửa uống rượu cần.
Bữa rượu cần ấy đánh dấu việc vùng đất Tây Nguyên được người Pháp trả về với Việt Nam và được hưởng một quy chế Hoàng triều cương thổ khác với ba kỳ.
Sau lễ ấy ông Bảo Đại đi thị sát các tỉnh miền Nam, còn tôi thì về lại Huế.
Chuyện cũ đã hơn 45 năm tôi tưởng không bao giờ có dịp nhắc lại. Không ngờ bây giờ các nhà nghiên cứu Đà Lạt và Cao nguyên còn muốn biết để hiểu cặn kẽ hơn vùng đất này, tôi xin kể, nhưng chắc không tránh khỏi những sai sót do tuổi già, rất mong được chiếu cố tha thứ.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Sinh năm 1937
Tốt nghiệp Ngữ văn - Đại học Sư phạm Huế
Nhà nghiên cứu Triều Nguyễn
Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
Hiện là Trưởng Văn phòng đại diện Báo Lao Động tại miền Trung và Tây Nguyên.
(BLĐ Xuân Bính Tý 1996)