| 
                         Trang trước || MỤC LỤC || Trang sau  | 
                
| 
                         | 
                    
                         Chương I : NGUỒN GỐC CHUNG 
                             Nguồn
        gốc các dân tộc bản  địa trên lãnh thổ Lâm Đồng ngày nay có quan hệ mật thiết đến lịch sử xuất hiện con người tiền sử ở Việt Nam.
                                 
                            Nhiều
        triệu năm về trước, lãnh thổ Lâm Đồng cũng như miền Đông
        Nam Bộ nói riêng và bán đảo Đông Dương nói chung đã ổn định
        về kiến tạo. Các hoạt động tạo sơn đã chấm dứt, nham thạch
        phun trào bazan đã bị phong hóa mạnh, tạo ra 
        một vùng đất đỏ rộng lớn bao trùm nhiều nơi ở miền Đông Nam Bộ. Đến kỷ đệ tứ trong lưu vực sông Đồng Nai và vùng ven biển trung bộ cũng như đồng bằng Nam Bộ, điều kiện tự nhiên đã thuận lợi cho sinh trưởng thực vật và động vật. Một chế
                                độ nhiệt đới ẩm gió mùa đã thúc đẩy sự phát triển rừng và nhiều loài chim thú. Chính trong hoàn cảnh đó đã tạo điều kiện xuất hiện con người nguyên thủy
                                 
                            Khảo
        cổ học trong nửa sau thế kỷ XX, đã tìm thấy trong vùng đất
        đỏ của lưu vực sông Đồng Nai nhiều bằng chứng về sự có mặt
        của con người nguyên thủy. Tại Hang Gòn và Dầu Giây, thuộc vùng
        Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai và tại Vườn Dũ, tỉnh Sông Bé, các
        nhà khảo cổ đã tìm thấy  những dụng cụ như rìu tay, đá ba mặt mũi nhọn, nạo, các hòn đá ném... Những phát hiện này, khẳng định vào sơ kỳ thời đại đá cũ cách nay 150 ngàn năm, người
                                nguyên thủy, đã có mặt ở vùng miền Đông Nam Bộ. Khảo cổ học, còn cho biết, cùng với thời đại này, người nguyên thủy cũng đã có mặt tại miền Bắc (di chỉ khảo cổ Núi Đọ, hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai...).
                                Nghĩa là trên lãnh thổ nước ta, kể cả ven biển miền Trung và Tây Nguyên cách đây hơn chục vạn năm đã có người nguyên thủy. Họ đã phát triển vượt qua giai đoạn đầu từ vượn tiến lên thành người, đạt đến giai đoạn người vượn
                                đứng thẳng khá phát triển (Homo erectus). Người Homo erectus này sống thành bầy, mỗi bầy 20-30 người. 
        Nhiều chứng tích chứng tỏ,
        trong bầy người này xuất hiện gia đình mẫu quyền, và có khả
        năng cộng đồng đó đã manh nha hình thức tiền thị tộc. Cuộc
        sống của họ dựa vào săn bắt chim thú, có thể săn cả thú lớn
        như voi răng kiếm, voi na- ma (Paleoloxodon namadicus)... Hẳn là họ
        đã có một trình độ tổ chức phối hợp hành động cả bầy khéo
        léo mới làm được việc săn đó, và có cách phân phối vật săn
        công bằng hợp lý, nhằm bảo đảm bảo hiệu quả săn bắt và duy
        trì phát triển tập đoàn. Nhưng nói chung, nguồn sản phẩm do săn
        bắt cũng không dồi dào, công việc cũng rất khó khăn vì chỉ
        dùng công cụ là gỗ, tre và những mảnh tước của đá nhọn chưa
        gia công gì. Nên nguồn sống chính của họ là sản phẩm hái lượm
        như trái cây, búp lá non, rễ củ... và nguồn sản phẩm dưới nước:
        ốc, sò, trai, cá... Nguồn này dồi dào, dễ kiếm, sức lực riêng
        lẻ từng người cũng kiếm được. Họ thường di chuyển từ nơi
        này sang nơi khác để kiếm ăn, và để tránh khắc nghiệt của
        khí hậu. Theo nguồn thức ăn, họ có thể di chuyển rất xa. Chẳng
        hạn chủng người Môngôlôit từ phía Bắc đã thiên cư xuống
        phía Nam, theo thung lũng các sông lớn, như sông MêKông hoặc
        đi dọc bờ biển đến tận miền cực Nam nước ta. Trong lịch sử,
        còn có những cơ hội cho những cuộc di chuyển trên những khoảng
        cách rất lớn của các cộng đồng người nguyên thủy từ biển vào.
        Chúng ta biết vào kỷ đệ tứ, trên hành tinh này đã xảy ra
        nhiều thời kỳ băng hà phát triển (tiến) và rút lui (thoái).
        Do nhiều hiệu ứng khác nhau, đã đưa đến hiện tượng mực nước
        biển hạ thấp vào thời kỳ băng hà tiến, và dâng cao khi băng
        hà thoái. Chẳng hạn vào thời kỳ băng hà tiến lần cuối cùng
        cách đây 4 vạn năm, mực nước biển rút đến 90 m. Một vùng
        đất mênh mông trước là đáy biển nông đã lộ ra, nối liền
        bán đảo Đông Dương với quần đảo Mã Lai gồm các nước
        Malaisia, Inđônêsia, Philíppin ngày nay. Vào thời kỳ đó, biển
        Đông chỉ thông với Thái Bình Dương ở cửa ngõ phía Bắc trên
        vùng biển Đài Loan ngày nay. Chính thời kỳ này đã diễn ra các
        dòng thiên cư to lớn qua lại của hai cộng đồng người nguyên
        thủy trên đất liền và ngoài hải đảo trong hàng trăm năm. 
                            Do
        thiên cư, trên bán đảọ Đông Dương trong một thời kỳ tới
        vạn năm đã chung sống hai cộng đồng người nguyên thủy: người
        tại chỗ (kể cả người di chuyển từ phía Bắc xuống) được gọi
        là chủng người Môngôlôit phương nam; và người gốc hải đảo,
        được gọi là chủng người Ôxtralôit. Qua quá trình lâu dài,
        sự kết hợp hỗn giao giữa 2 chủng loại người đó, đã hình thành
        một chủng người mới đặc thù của vùng này: đó là người
        Anhđônêdiên. Dần dà, người Anhđônêdiên phát triển đông
        thêm, lan tỏa có mặt khắp cả miền Nam bán đảo Đông Dương.
        Đến vào cuối thời đại đá giữa cách đây gần vạn năm, họ
        đã trở thành chủ nhân của vùng này. Trong cộng đồng người
        Anhđônêdiên, tùy nguồn gốc xa xưa mà có đặc trưng trội
        hơn về từng mặt. Như có nhóm thì nói theo ngữ hệ Môn Khơ
        me, còn nhóm khác thì theo ngữ hệ Malayô- Pôlinêsia. Các đặc
        trưng về hình thể nhân chủng, về văn hóa cũng có sự nổi trội
        đó. Chính sự khác biệt này, đã dần dần hình thành các nhóm
        người có cùng đặc trưng chủ yếu, là tiền thân của các dân
        tộc khác nhau sau này. 
        Các
        nhóm người Anhđônêdiên sống chung theo chế độ thị tộc rồi
        phát triển thành bộ lạc. Trình độ của họ cao hơn tổ tiên xuất
        phát của họ, tuy vẫn dùng đá làm công cụ sản xuất nhưng họ
        đã biết chế tác đá, lúc đầu là đẽo gọt về sau là mài. Lúc
        đầu chỉ dùng đá, về sau đã biết làm chuôi tra cán gỗ
        tre... Nhờ vậy, sản xuất đã khá, đời sống tạm đủ hơn trước.
        Về sau họ lại tìm được vật liệu mới, đó là đồng thau. Như
        vậy, có thể cho rằng người Anhđônêdiên là chủ nhân của nền
        văn hóa đá mới- đồng thau. Dấu vết thời kỳ văn hóa đá mới
        được tìm thấy ở một số nơi. Ở Bàu Cạn, tỉnh Gia Lai, tìm
        thấy những chiếc rìu hay bôn bằng đá dạng tứ giác hay có
        vai, được mài rất đẹp. Những công cụ này có kích thước lớn
        hơn so với cùng loại những nơi khác. Một số có thân cong, có
        lẽ được dùng để xới đất hơn là để chặt đẽo.  
                            Ở 
        địa điểm
        Đrai-xi bên phải sông Ia- mađo, tỉnh Đăklăk, bên cạnh rìu
        đá, dao đá, bàn mài và đồ gốm, còn tìm được những chiếc
        cuốc đá dài khoảng 20-30 cm, rộng 5-7 cm thân dài và cong, không
        có chuôi cán. Rõ ràng là dùng để xới đất. Trong lưu vực sông
        Đồng Nai, cũng đã tìm được các hiện vật của thời hậu kỳ
        đá mới. Ở di chỉ Cầu Sắt huyện Xuân Lộc thuộc tỉnh Đồng Nai, cách ranh giới Lâm Đồng không đến 100
        km, tìm được nhiều đồ đá và đồ gốm, rìu và bôn làm bằng
        đá bazan khai thác tại chỗ, hầu hết được mài toàn thân, nhưng
        vẫn còn vài dấu đẽo. Trong số rìu, bôn không có vai, thì hơn
        70%
                             có
        hình gần tam giác, đốc nhọn, lưỡi xòe rộng, mặt cắt ngang hình
        bầu dục dẹt. Rìu vai xuôi và rìu tam giác là các dụng cụ
        đặc trưng cho di chỉ này. Ngoài ra còn khá nhiều dao đá hình
        bán nguyệt, lưỡi cong và sống thẳng, phần lớn được mài nhẵn,
        có thể đó là dao gặt lúa. Phần lớn đồ gốm ở đây làm bằng
        bàn xoay, đặc biệt là những chiếc cốc, bát chân cao, thành mỏng
        làm bằng đất sét trắng, chứng tỏ trình độ chế tác gốm đã
        khá cao. 
                            Các
        dấu vết của giai đoạn cao hơn giai đoạn Cầu sắt, cũng đã tìm
        được ở các di chỉ Bến Đò, Phước Tân, Hội Sơn, Ngãi Thắng...
        ở các di chỉ này, rìu và bôn có vai, làm bằng đá chiếm tỉ
        lệ nhiều hơn, đa số có vai xuôi. Có cái vai ngang và hợp với
        chuôi thành một góc gần vuông. Những công cụ này thường
        được chế tác rất đẹp. Có chiếc khá lớn, dài gần 16 cm, lưỡi
        rộng gần 9cm và bề dày ở chuôi đến 5cm. Các dao đá ở di chỉ
        này bản rộng, có thể dài hơn 20cm, hai đầu sống dao có hai cái
        mấu nhô ra. Đã tìm thấy những chiếc cuốc đá mài nhẵn, có
        chuôi. Các mẫu gốm ở đây cũng có trình độ cao hơn, gần giống
        với kiểu trang trí văn hóa Phùng Nguyên ở phía Bắc. 
                            Những
        chứng cứ nói trên cho ta biết người Anhđônêdiên đã từng
        sinh sống khắp cả miền Nam nước ta, kể cả ở Tây Nguyên, ven
        biển miền Trung và lưu vực sông Đồng Nai. Họ đã trải qua thời
        đại đá mới, đi vào thời đại đồng thau. Chính họ là tổ tiên
        chung của các dân tộc bản địa Tây Nguyên và miền Nam nói
        chung. 
                            Sự
        ra đời các dân tộc có nguồn gốc bản địa ở lãnh thổ Lâm
        Đồng nói riêng, và miền Nam nói chung gắn liền với nền văn hóa
        Sa Huỳnh. Tiếp nối với văn hóa đá - đồng đã nói ở phần trên,
        khảo cổ học cho biết, vào thời kỳ từ giữa thiên niên kỷ thứ
        I trước công nguyên đến một vài thế kỷ đầu công nguyên, trên
        dải đất ven biển miền trung và lưu vực sông Đồng Nai, đã tìm
        thấy nhiều dấu vết của một nền văn hóa vật chất đặc trưng
        cho giai đoạn đồng-sắt của cư dân cổ gọi chung là văn hóa
        Sa Huỳnh (Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi). 
        
        Ở
                             
        di chỉ Sa Huỳnh, nổi
        bật bên những rìu đá có vai, là những chiếc bôn độc đáo.
        Đã tìm thấy một số ít vật bằng đồng như lưỡi giáo, chuông
        nhỏ, và đồ trang sức Nhưng những dụng cụ bằng sắt lại còn
        nhiều hơn cả về số lượng và loại hình từ công cụ sản xuất
        (có cả liềm gặt), đến những vũ khí : giáo, mác, đao, kiếm và
        những dụng cụ khác. 
                            Trong
        gốm Sa Huỳnh, các đồ đựng như bát, bình có chân đế, có thân
        gãy ở vai hay đáy, chiếm tỷ lệ lớn. Mẫu gốm thường gặp là
        vàng đỏ, nhiều khi có vệt đen bóng, có hoa văn chữ S có đệm
        tam giác, những đường chấm hay đường in dấu răng vỏ sò.
        Trong các di chỉ mộ táng, phổ biến là mộ vò, trong vò chứa
        nhiều đồ trang sức bằng đồng, đá quý, thủy tinh, đặc biệt
        là loại khuyên tai ba mấu nhọn và khuyên tai hai đầu thú. Các
        đặc trưng đó của văn hóa Sa Huỳnh cũng đã tìm được ở các
        di chỉ trong lưu vực sông Đồng Nai. Có nơi còn có những đặc
        trưng xưa hơn, mà khảo cổ học gọi là văn hóa thời tiền Sa
        Huỳnh. Điều đó đã xác nhận cách đây gần 3 ngàn năm, trên
        lưu vực sông Đồng Nai mà lãnh thổ Lâm Đồng là thượng nguồn,
        đã có những bộ lạc sinh sống với một nền văn hóa đồng- sắt
        đã phát triển và có đặc trưng riêng. Ta có thể nói các bộ
        lạc này là tiền thân của các dân tộc bản địa. Sách ''lịch
        sử Việt Nam'' (Phan Huy Lê chủ biên) cho biết, bấy giờ trên
        địa bàn của văn hóa Sa Huỳnh có hai bộ lạc sinh sống. Bộ lạc
        Cau (chữ Phạn là Kramuka vam'sa) cư trú vùng Phú Yên Khánh Hòa-
        Ninh Thuận- Bình Thuận trở vào, và bộ lạc Dừa (chữ Phạn là
        Narikela vam'sa) ở vùng Bình Định Quảng Nam ngày nay. Bộ lạc Dừa
        từ thế kỷ đầu trước công nguyên bị nhà Hán đô hộ (cùng
        thời kỳ với nước Âu Lạc) và đặt tên là huyện Tượng Lâm.
        Năm 190- 193, nhân dân Tượng Lâm nổi dậy đánh đuổi giặc Hán,
        lập nên nước Lâm ấp (theo tên gọi của thư tịch cổ Trung
        Hoa). Bộ lạc Cau, khoảng đầu công nguyên, đã hình thành một
        tiểu quốc riêng có tên là Panduranga (tên Phạn) hay Pan-Rãn (tiếng
        Chăm cổ), về sau gọi là Chăm Pa, có địa bàn từ Nha Trang-
        Phan Rang, Phan Thiết ngày nay. Tư sự ra đời nói trên của dân
        tộc Chăm và nhà nước của họ, cho thấy ở nam Trung bộ thời ấy,
        đã có hai cộng đồng lớn: cộng đồng người Chăm với ngôn ngữ
        hệ Malayô-Pôlinêxia cư trú vùng ven biển và cộng đồng với
        ngữ hệ Môn- Khơ Me (Mạ, Cơ Ho, M'Nông), cư trú vùng núi và
        cao nguyên. 
                            Nói
        cách khác, trong giai đoạn văn hóa Sa Huỳnh, người Mạ, Cơ Ho,
        M'Nông, đã là cư dân bản địa vùng miền núi và cao nguyên,
        kể cả lãnh thổ Lâm Đồng. Họ là các phân hệ đời sau của một
        tổ tiên chung Anhđônêdiên. 
        
        Ở
                             
        người Mạ và người Cơ Ho, hai dân tộc đông nhất trên lãnh thổ này, thì dấu ấn ÔxtralÔit (da
        đen, tóc quăn, sống mũi cao, vóc người thấp.:.) có phần trội
        hơn so với dấu ấn Môngôlôit (da vàng, tóc thẳng, gò má cao,
        mũi thấp...). Và trong dấu ấn Ôxtralôit thì ở người Cơ Ho, yếu
        tố Mêlanêdiên (tóc hơi quăn, mũi lớn và thấp, người bé nhỏ...),
        có phần đậm nét hơn (Mạc Đường- Vấn đề dân tộc ở Lâm
        Đồng). Các khảo sát đặc điểm hình thái học chi tiết hơn cũng
        xác nhận nguồn gốc bản địa (Anhđônêdiên) của người Cơ Ho
        và người Mạ (Một số đặc trưng nhân chủng học của người
        Chil- Võ Hưng- dân tộc học số l-1978). 
                            Người
        Mạ và người Cơ Ho là người bản địa, nhưng
        địa vực cư trú ban đầu của họ ở đâu thì ta chưa biết. Cũng
        như người Chăm, các tộc người Mạ, Cơ Ho, M'Nông, Ra glai
        v.v... đều là chủ nhân của nền văn hóa Sa Huỳnh, đều là các
        dân tộc của bản địa, lâu đời ở phía Nam Việt Nam. Nhưng cho
        đến nay (1997) trên lãnh thổ Lâm Đồng vẫn chưa tìm được dấu
        tích văn hóa Sa Huỳnh như ở các tỉnh lân cận. Vì thế, có thể
        nghĩ rằng dân tộc Mạ và Cơ Ho đã từ vùng lân cận chuyển cư
        đến lãnh thổ này. Trong các trường ca của dân tộc Mạ và Cơ
        Ho, ta bắt gặp các dấu ấn về một thời kỳ biển trong ký ức của
        họ. Có thể đó là do trong lịch sử, họ đã có thời kỳ lâu dài
        ở với biển, rồi sau đó dưới sức ép của các cộng đồng dân
        tộc khác lớn mạnh hơn, họ đã thiên cư mãi mãi đến lãnh thổ
        này. Theo tiếng Chăm cổ, Cơ Ho có nghĩa là ở trên cao, người
        miền núi (theo Mạc Đường). Như vậy thì có thể từ khi hình
        thành vương quốc Chăm Pa ở ven biển miền trung và vương quốc
        Phù nam ở phía Tây Nam khoảng thế kỷ I-II, người Mạ và người
        Cơ Ho đã định cư ở Lâm Đồng rồi. 
                            Địa
        vực của người Mạ, có lẽ từ xưa đã ở trong vùng Cát Tiên -
        Đạ Tẻh trở xuống phía Đồng Nai. Khi có vương quốc Phù
        Nam,(và tiếp sau đó là một tiểu vương quốc khác mà di chỉ
        khảo cổ Cát Tiên đã phát hiện), người Mạ mới thiên cư lên
        vùng cao nguyên Di Linh thuộc địa phận Bảo Lộc, Bảo Lâm ngày
        nay. 
                            Như
        vậy địa vực của người Mạ chính là lưu vực
        của sông Đại Nga (Đar'gna) tức phần thượng nguồn sông La Ngà
        ngày nay, trong vùng mà học giả Pháp Ông Jean Boulbet gọi là vòng
        cung Đa Dâng (Boucle de la Đa Dâng: xem BSIE tom 32 No -2). Từ sau
        tiểu vương quốc thuộc di chỉ Cát Tiên mất đi, người Mạ mới
        trở lại vùng đất cũ của mình là vùng Đạ Tẻh- Cát Tiên, và
        đến thế kỷ 17 thì họ xây dựng được tiểu vương quốc Mạ
        (theo Mạc Đường), nhưng sau đó cũng không tồn tại. Nhưng người
        Mạ vẫn ở đó cho đến thế kỷ 20. Trong thời Nguyễn (thế kỷ 16
        - 19) có lẽ địa vực của người Mạ không có sự biến động lớn.
        Mặc dù giai đoạn này, người Kinh đã dần dần định cư lớn
        ở miền Nam Việt Nam, nhưng số người Kinh đến định cư đông
        ở vùng người Mạ có thể chưa có. Bằng chứng là trong tờ trình
        của Nguyễn Thông, gởi triều đình Huế năm 1867 về việc khảo sát
        vùng thượng lưu sông La Ngà, chỉ gặp mấy người Kinh mà thôi.
        Đến đầu thế kỷ này, địa vực người Mạ đã được Jean
        Boulbet ghi lại ở bản đồ với tên
        Cau Mạ, Caư Sre, ý cho rằng người Mạ và người Sre trước là
        từ bộ tộc Cau mà ra. 
                            Về
        địa vực người Cơ Ho, sau khi chuyển cư lên cao nguyên, đã cư
        trú ở cao nguyên Lâm viên và phần phía Bắc cao nguyên Di Linh.
        Trong lịch sử, địa phận của người Cơ Ho (bao gồm các nhóm
        Chil, Lat...) có lẽ không biến động lớn như của người Mạ. Phía
        Duyên Hải ngăn cách họ với người Chăm có trình độ và lực
        lượng hơn hẳn, và về sau thay người Chăm là người Kinh ở
        triều Nguyễn là các dãy núi cao hiểm trở. Còn các phía khác
        là các dân tộc lưc lượng tương đương với họ, nên cơ hội
        lấn chiếm lớn cũng ít hơn tuy đụng độ có nhiều, nhưng không
        ảnh hưởng lớn đến thay đổi địa vực và tồn vong của cả một
        tộc người bản địa. 
                            Địa
        vực cư trú từ xa xưa của người M'nông là vùng phía Bắc dãy
        Lang Bian-Bi Đúp, trên cao nguyên Buôn Mê Thuộc. Có lẽ trong lịch
        sử, các tộc người M'nông, Cơ Ho và Mạ là chung một nguồn gốc
        (theo Mạc Đường). Tổ tiên Anhđônêdiên, sau đó đã lách thành
        các dân tộc có các đặc thiêng liêng. Trong lịch sử, dân tộc
        M'nông và Cơ Ho luôn luôn là hai dân tộc kề cận nhau, ảnh hưởng
        lẫn nhau, và có lẽ nhóm người Chil là kết
        quả của giao lưu này. Vì vậy, trong dân Chil có người nhận mình
        là dân tộc Cơ Ho, ở người khác thì coi mình là người M'nông.
        Do ranh giới tự nhiên giữa người M'nông (lưu vực sông Krôngnô)
        và người Cơ Ho (lưu vực sông Đa Dâng), là dãy núi cao nhất
        phía Nam, nên địa phận của người M'nông cũng không biến động
        lớn xét về phía lãnh thổ Lâm Đồng. 
                            Trong
        các dân tộc Lâm Đồng, người Raglai và người Chu Ru nói ngôn
        ngữ thuộc hệ Malayô- Pôlinêsia, khác với nhóm Mạ - Cơ Ho - M'nông
        ngôn ngữ thuộc hệ Môn- Khơ Me. Đối với vùng ven biển miền
        trung (Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận...) người Raglai có mặt cùng
        thời với người Chăm. Tức là tộc người bản
        địa xa xưa. Nhưng đối với Lâm Đồng, họ là dân tộc thiên cư
        đến không sớm hoặc có thể muộn hơn so với người Mạ và người
        Cơ Ho. Về người Chu Ru, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng họ không
        phải là dân tộc có nguồn gốc bản địa như Cơ Ho hay Mạ, mà
        là từ dân tộc bản địa tách ra (nửa bản địa). Sự hình thành
        của dân tộc này, bắt rễ từ giao lưu giữa hai cộng đồng bản
        địa nói hai hệ ngôn ngữ khác 
        nhau
        là: Chăm và Cơ Ho. Trong sự giao lưu lâu dài đó một bộ phận
        người ở cả hai phía, dần dần tách khỏi cộng
        đồng gốc của mình tự tập họp lại. Quá trình này diễn ra một
        cách tự nhiên trong vài trăm năm, và đến lúc chín muồi, họ
        tự nhận là một dân tộc riêng, thiên cư đến một địa phận
        thích hợp. Phần lớn nhà nghiên cứu cho rằng người Chu Ru tách
        ra từ dân tộc Chăm (Nguyễn Văn Diệu), cũng có người cho là từ
        người Raglai (Mạc Đường). Đặc điểm nửa bản địa của người
        Chu Ru thể hiện trên nhiều mặt. Họ nói cùng ngữ hệ với người
        Chăm, nhưng nhiều người Chu Ru rất thạo tiếng Cơ Ho -Mạ, và
        trong vốn từ ngữ, họ tiếp nhận nhiều từ gốc ở tiếng Cơ Ho -
        Mạ. Về trình độ, người Chu Ru có sự phát triển trên một số
        mặt cao hơn người Mạ (ví dụ làm lúa nước), và cũng có mặt
        cao hơn người Cơ Ho (giữ vai trò trung gian trong mua bán trao
        đổi giữa người Cơ Ho - Chăm). Nhưng nhìn chung thì trình độ
        phát triển của người Chu Ru vẫn thấp hơn người Chăm. Ngoài
        ra trong các chuyện kể của người già, người Chu Ru cũng nhận
        họ vốn là con cháu của người Chăm. Tộc danh Chu Ru có nghĩa là
        ''lấn đất'', điều đó giúp ta hiểu họ từ ngoài thiên cư
        đến. Có thể từ rất lâu họ là cái ''đệm tự nhiên'' giữa
        hai cộng đồng Chăm và Cơ Ho- Mạ, làm cầu nối cho hai cộng
        đồng, và đến một lúc nào đó họ mới tự tách ra và nhận là
        một dân tộc riêng. 
  | 
                    
| 
                         Trang trước || MỤC LỤC|| Trang sau  |