Mục lục |
Sở khoa học - công nghệ môi trường |
Từ
khi thực hiện chính sách đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng năm 1986, kinh tế Lâm Đồng đã có những chuyển biến rõ rệt và thay đổi theo xu hướng tích cực.
Sau
hơn 10 năm đổi mới, về sản xuất công nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh hiện có 6 doanh nghiệp quốc doanh Trung ương; 14 doanh nghiệp quốc doanh địa phương; 49 công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), doanh nghiệp tư nhân; 6.500 cơ sở sản xuất hoạt động theo
Nghị định 66/HĐBT; hàng năm tạo ra một giá trị sản xuất công nghiệp gần 800 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng hàng năm trong giai đoạn 1990 - 1998 bình quân > 15%/năm, trong đó công nghiệp chế biến có tốc độ tăng trưởng cao nhất > 20% năm.
Năm
1990, tỷ trọng ngành công nghiệp chiếm trong GDP của tỉnh là 9,5%, đến
năm 1997 là 11,78%, năm 1998 là 12,4%. Tỷ lệ này đạt thấp so với yêu
cầu đề ra là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần và tăng
nhanh tỷ trọng công nghiệp trong GDP, chủ yếu do tốc độ tăng của ngành
nông nghiệp trong các năm qua vẫn khá cao, ngành công nghiệp tăng chậm
hơn. Tỷ lệ nộp ngân sách của ngành công nghiệp trong những năm 1990
chiếm 24,11% tổng thu ngân sách; đến năm 1998 chỉ chiếm xấp xỉ 18% do
cơ cấu ngành hàng thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng hàng xuất khẩu,
và nhiều yếu tố khác. Tỷ suất lợi nhuận của một số ngành hàng giảm
do thị trường ngày càng bị cạnh tranh.
Tuy
có những bước phát triển nhất định nhưng công nghiệp chế biến sử
dụng nguyên liệu tại chỗ trong những năm qua chủ yếu mới phát triển
theo chiều rộng, chưa có những sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật
cao. Trình độ công nghệ và thiết bị có khá hơn nhờ những doanh nghiệp
nhiều thành phần kinh tế đầu tư mới trong các năm gần đây, song các
nhà máy, xí nghiệp cũ trình độ còn lạc hậu, chậm được đổi mới,
nâng cấp.
1. Những sản phẩm chính của ngành công nghiệp đã được đầu tư phát triển trong những năm qua
a)
Quốc doanh địa phương
|
|
|
|
-
Thiếc |
tấn |
- |
72,87 |
-
Phụ tùng các loại |
tấn |
40 |
129,35 |
-
Máy các loại |
cái |
7 |
1 |
-
Thuốc nước |
1.000
lít |
2,5 |
7,89 |
-
Gạch nung |
1.000
viên |
6.250 |
32.934,7 |
-
Ngói nung |
1.000
viên |
1.423 |
- |
-
Đá oplate |
m2 |
- |
2.136,82 |
-
Đá xây dựng |
m3 |
25.500 |
100,51 |
-
Gỗ xẻ |
m3 |
28.137 |
3.567,73 |
-
Bột giấy |
tấn |
231 |
456,17 |
-
Sứ dân dụng |
1.000
sp |
96 |
4,91 |
-
Kaolin các loại |
tấn |
4.487 |
5.377,95 |
-
Chè chế biến |
tấn |
3.966 |
4.255,79 |
-
Rượu các loại |
1.000
l |
247 |
277,29 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
b) Ngoài quốc doanh :
Chỉ
tiêu
|
ĐVT |
1991 |
1998 |
-
Đá các loại |
1000
m3 |
11,04 |
100 |
-
Cát sỏi các loại |
1000
m3 |
16,5 |
190,99 |
-
Gạo ngô xay xát |
Tấn
|
30.000 |
112.060 |
-
Bánh kẹo các loại |
Tấn |
179 |
220,46 |
-
Đường mật các loại |
Tấn |
6.585 |
11.400 |
-
Chè chế biến |
Tấn |
3.557 |
11.600 |
-
Cà phê chế biến |
Tấn |
200 |
213,8 |
-
Rượu trắng |
1000
lít |
821 |
625,02 |
-
Bia các loại |
1000
lít |
3.317 |
198 |
-
Sợi ươm tơ |
Tấn
|
29,9 |
213,85 |
- Quần
áo may gia công |
1000
cái |
2.250 |
1.711,27 |
-
Sản phẩm thêu đan |
1000
cái |
67,9 |
166,15 |
-
Gỗ xẻ các loại |
1000
m3 |
4,182 |
11 |
-
Giấy vàng mã |
Tấn
|
- |
2.827 |
-
Trang in typô |
Triệu
trang |
7,950 |
16,18 |
-
Gạch nung các loại |
1000
viên |
10.003 |
29.783 |
-
Ngói nung các loại |
1000
viên |
9.003 |
2.465 |
-
Gạch bông |
1000
viên |
- |
204,97 |
-
Cửa sắt các loại |
1000
m2 |
5,8 |
52 |
-
Nông cụ cầm tay |
1000
cái |
41 |
111 |
-
Đất đèn |
Tấn |
16 |
67,1 |
Một
số ngành công nghiệp tuy có tiềm năng nhưng do điều kiện về vốn
đầu tư, năng lực quản lý, thị trường tiêu thụ nên chưa phát triển
được.
* Các loại nông sản :
Loại
nông
sản |
Diện
tích hiện có (ha) |
Diện
tích có thể mở rộng (ha) |
Tổng
diện tích có thể qui hoạch (ha) |
Năng
suất bình quân |
Sản
lượng |
- Chè |
30.893 |
7.115 |
38.008 |
45tạ/ha |
235.650
|
- Cà phê |
85.399 |
10.000 |
95.399 |
15tạ/ha |
150.000
|
- Điều |
11.635 |
365 |
12.000 |
6tạ/ha |
7.200
|
- Dâu tằm |
7.653 |
1.347 |
9.000 |
62tạ/ha |
55.800
|
- Mía |
4.130 |
7.870 |
12.000 |
450tạ/ha |
648.000 |
-
Các loại cây hàng năm khác |
80.015 |
1.985 |
82.000 |
|
|
- Cây ăn trái |
6.110 |
7.000 |
7.000 |
90tạ/ha |
63.000 |
Tổng
cộng |
225.835 |
29.572 |
255.407 |
|
|
* Các loại khoáng sản
Các
loại khoáng sản có khả năng khai thác để chế biến có giá trị thương
phẩm cao nhưng chưa được đánh giá đầy đủ, mới chỉ có những thông
số ban đầu :
Loại
sản lượng hàng năm
-
Thiếc
: 1.300 tấn quặng
-
Vàng : Từ 40 - 50 kg vàng 0,9999
-
Kaolin :
20.000 tấn/năm
-
Bauxite : 2 triệu tấn/năm
-
Bentonite : 100.000 m3/năm
-
Diatomite : 70.000 m3/năm
-
Than nâu : 1 triệu tấn/năm
2.1 Chế biến nông sản
Chế
biến nông sản chỉ mới khai thác được một vài mặt hàng như chè, cà
phê, điều, mía, dâu và kén tằm, nhưng chỉ mặt hàng chè, dâu và kén
tằm được chế biến tương đối tinh, còn cà phê, điều, mía mới sơ
chế, lượng nguyên liệu huy động vào chế biến còn thấp.
Các
nông sản khác có số lượng khá nhưng chưa được chế biến như rau, quả, ngô, đậu các loại.
Ngành
hàng này đã được Đảng, Nhà nước Trung ương và địa phương quan
tâm nhiều mặt, thời gian qua đã được mở đường bằng nhiều cơ chế
chính sách thông thoáng hơn nhưng còn nhiều hạn chế chưa phát huy
được ở ngành hàng này là:
- Thị trường biến động, giá cả không ổn định.
- Phụ thuộc thời tiết, mùa vụ lớn.
- Khó đưa vào chế biến do nhiều chủng giống không thuần nhất, chất lượng nguyên liệu không đồng đều.
- Năng suất nhiều loại còn khá thấp do giống, kỹ thuật canh tác, thiếu nước tưới, trình độ lao động v.v...
- Chưa được quy hoạch thành các vùng chuyên canh tập trung lớn.
- Thiếu chính sách, cơ chế bảo hộ sản xuất cho nông dân.
- Đầu tư khoa học - kỹ thuật cho trồng trọt, chế biến còn hạn chế.
- Vốn để đầu tư cho trồng trọt, chế biến phần lớn là vốn vay nhưng thời hạn và lãi suất cho vay chưa thực sự khuyến khích nhà đầu tư...
- Hệ thống dịch vụ về thông tin thị trường, khoa học - công nghệ, mua nguyên liệu, bán thành phẩm chưa thỏa mãn được yêu cầu của người sản xuất, độ tin cậy còn thấp...
2.2 Chế biến các sản phẩm từ chăn nuôi
Lâm Đồng có tiềm năng chăn nuôi đại gia súc như trâu bò, heo, gà... nhưng chưa có chương trình chăn nuôi nào lớn được thực thi. Tỉnh đã có nhiều chủ trương khuyến khích nhưng vận dụng vào thực tế còn hạn chế, có thể thấy một số mặt hạn chế sau
đây:
- Chưa có quy hoạch cụ thể.
- Quy mô chăn nuôi còn nhỏ, chưa thích hợp cho đầu tư khâu sau (chế biến).
- Khai thác thị trường khó khăn, thị trường trong nước nhỏ hẹp (80% cư dân ở nông thôn hầu hết tự cấp tự túc gia súc gia cầm), thị trường nước ngoài chưa khai thác đúng mức.
- Năng suất, chất lượng sản phẩm từ chăn nuôi còn thấp.
2.3 Chế biến khoáng sản
Khoáng
sản Lâm Đồng rất đa dạng, nhưng chưa được đánh giá đầy đủ và
phát huy đúng mức do:
- Hầu hết các khoáng sản chưa được điều tra, đánh giá đầy đủ do vậy khó kế hoạch, quy hoạch sử dụng và xây dựng dự án đầu tư khai thác có hiệu quả.
- Công tác quản lý khoáng sản chưa chặt chẽ, giá trị từng loại khoáng sản chưa được đánh giá đúng.
- Chi phí đầu tư cho hoạt động khoáng sản theo qui mô công nghiệp nói chung rất lớn.
- Thị trường khoáng sản thế giới phức tạp, khó nắm bắt, chưa thiết lập được hệ thống thông tin thị trường tốt.
- Đầu tư khoa học - công nghệ cho hoạt động khoáng sản chưa đáng kể?
2.4 Công nghiệp chế biến lâm sản
Lâm Đồng có nguồn lâm sản khá phong phú, sản lượng lớn, có
nhiều chủng loại quí hiếm, một thời gian dài thực sự được xem là
nguồn lực cơ bản cho địa phương, có vai trò quan trọng trong bước đầu kiến thiết nền kinh tế tỉnh, cho đến nay việc khai thác bị Nhà nước giới hạn nhằm giữ vai trò là mái nhà cung cấp nước cho cả vùng Đông Nam
bộ rộng lớn. Tuy vậy ngay ở mức sản lượng hạn chế này cũng cần có các dự án đầu tư có hàm lượng kỹ thuật, độ tinh xảo cao để nâng cao ở mức tối ưu giá trị thương phẩm của chúng.
2.5 Các ngành công nghiệp khác
Ngoài
những ngành công nghiệp chế biến trên, Lâm Đồng còn có khả năng phát triển thêm một số ngành nghề khác như may mặc, sản xuất giày da, đan, thêu, chế tạo, sửa chữa
cơ khí, thủ công mỹ nghệ... Các ngành nghề đan, thêu, thủ công, mỹ nghệ có thể phát triển thành các hợp tác xã ngành nghề.
Các
ngành nghề đan, thêu, thủ công, mỹ nghệ, may... tuy chiếm tỷ trọng
không lớn trong cơ cấu công nghiệp của tỉnh nhưng thu hút được lao
động thủ công, không đòi hỏi trình độ cao và thời gian đào tạo
nghề ngắn. Một ưu điểm nữa là các ngành nghề này không gây tác
động xấu đến môi trường nên có thể bố trí cạnh trong khu dân cư.
3. Về công nghệ, thiết bị
3.1 Đánh giá chung
Qua
khảo sát đánh giá trình độ công nghệ trong thời gian gần đây cho
thấy máy móc thiết bị ở phần lớn các doanh nghiệp
như Công ty Chè, Khoáng sản, Đá xuất khẩu, Xí nghiệp sứ... các công ty TNHH có quy mô sản xuất vừa và nhỏ đã cũ, lạc hậu và hao mòn gần hết giá trị sử dụng. Một số đã hết khấu hao một thời gian khá lâu nhưng vẫn được tận dụng bổ sung, cải tạo,
cải tiến để tiếp tục sản xuất. Có các doanh nghiệp sử dụng máy móc trên 30 năm (trong chu kỳ công nghệ của thế giới hiện đại bình quân chỉ 5 năm). Gần đây, một số doanh nghiệp đã đầu tư bổ sung, đầu tư mới một số công trình với máy móc thiêt bị
đã có tính đồng bộ và công nghệ khá hơn như: Dây chuyền sản xuất gạch tuynen, dây chuyền chế biến chè xanh của Xí nghiệp Đông Phương, thiết bị của Nhà máy chè Minh Rồng..., dây chuyền may của Công ty May, và một số dự án chuẩn bị đầu tư có máy
móc thiết bị và công nghệ thuộc loại trung bình tiên tiến trở lên như: Nhà máy vật liệu chịu lửa, Nhà máy sản xuất rau cấp đông...
Phần
lớn các doanh nghiệp có tỷ lệ máy móc thiết bị tham gia vào sản xuất
thường thấp hơn 80% (đa số thấp hơn 60%) so với năng lực thực tế, có
nơi chỉ được 30%, chính điều này cũng là một yếu tố làm tăng giá
thành sản phẩm công nghiệp.
Một
trong những nguyên nhân dẫn đến mức huy động công suất máy móc thiết
bị thấp là do:
+ Nguyên liệu không ổn định về số lượng và chất lượng;
+ Thị trường tiêu thụ không ổn định về số lượng và giá cả;
+ Chế độ bảo dưỡng định kỳ không được thực hiện tốt và máy móc thiết bị cũ nên hỏng hóc xảy ra thường xuyên;
+ Thiết bị thiếu đồng bộ.
Trong
những năm qua, một số doanh nghiệp có đầu tư dây chuyền sản xuất mới
có công nghệ khá, máy móc thiết bị mới, nhưng các dây chuyền sản
xuất đầu tư mới còn chiếm tỷ trọng quá thấp trong ngành nên chưa tạo
được chuyển biến đáng kể, nhất là các ngành chế biến nông sản. So với yêu cầu của quá trình chuẩn bị ban đầu để thực hiện chủ trương công nghiệp hóa - hiện đại hóa thì hệ số đổi mới thiết bị, công nghệ trong
ngành công nghiệp trong những năm qua còn quá thấp so với yêu cầu.
3.2 Đánh giá mức trang bị năng lượng cho lao động công nghiệp
Mức
trang bị năng lượng cho các doanh nghiệp công nghiệp biến động từ
0,06 - 15,93 kW/người cho thấy nhiều dây chuyền công nghệ còn sử dụng
nhiều lao động thủ công. Nhà máy chè Cầu Đất: 2,14 kW/người, Nhà máy
Chè 1-5 1,16 kW/người, Phân xưởng chè xanh Nhật số 2: 4,13 kW/người,
Nhà máy chế biến điều: 0,11 kW/người, Xí nghiệp Đông Phương: 0,81
kW/người ...
Trong
những năm gần đây, rất ít các doanh nghiệp có khả năng đầu tư
đổi mới thiết bị. Chỉ có một số doanh nghiệp mới thành lập như phân
xưởng chè xanh Nhật, Công ty TNHH Đông Phương, Phân xưởng bia, Xí nghiệp Hiệp Thành...
Chi
phí nguyên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm của hầu hết các sản
phẩm đều cao hơn định mức chung trong nước.
Tuy
nhiên, mức trang bị năng lượng chỉ là một chỉ tiêu tham khảo.
4. Thị trường sản phẩm công nghiệp
Sản
phẩm công nghiệp của Tỉnh được tiêu thụ trong và ngoài nước. Những
sản phẩm xuất khẩu gồm chè, cà phê, điều, giấy, gỗ tinh chế, thiếc,
tơ tằm, lụa... những sản phẩm còn lại tiêu thụ nội địa là chính.
Đối
với thị trường nước ngoài lâu nay, các sản phẩm công nghiệp của tỉnh
tuy chất lượng không cao nhưng vẫn được chấp nhận, chủ yếu nhờ lợi
thế về giá. Tương tự, chất lượng các sản phẩm tiêu thụ nội địa
cũng thấp.
Tuy
trong giai đoạn hiện nay sức mua trong nước chưa cao, nhiều sản phẩm vẫn còn có khả năng tham gia thị trường, nhưng khi nền kinh tế có bước tăng trưởng khá, Việt
Nam tham gia vào thị trường chung thế giới và khu vực, dần dần các sản phẩm này sẽ bị yếu sức cạnh tranh.
5. Chất lượng lao động và tổ chức quản lý
Ngoài
yếu tố về mặt công nghệ, thiết bị, chất lượng lao động cũng đóng
một vai trò quan trọng trong hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Trong
những năm qua, vì những khó khăn trong sản xuất, lãnh vực sản xuất công
nghiệp không thu hút được lực lượng lao động (cán bộ và công nhân
kỹ thuật) và quản lý có trình độ cao. Ngoài ra, hệ thống đào tạo
nghề hiện nay chưa đào tạo được thợ tay nghề cao, các doanh nghiệp
lại không có khả năng đào tạo công nhân tại chỗ. Do vậy, tỷ trọng
cán bộ có trình độ đại học, trung cấp, công nhân bậc cao (đặc biệt
là khối khoa học - công nghệ) chiếm một tỷ lệ thấp trong cơ cấu lao
động, đặc biệt là công nhân bậc cao . Có những đơn vị không có công
nhân bậc 5. Đặc biệt khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, số lao động
có trình độ đại học, trung cấp chiếm tỷ lệ thấp.
Cán
bộ tốt nghiệp đại học chủ yếu được sắp xếp làm việc tại các phòng
quản lý, ít trực tiếp sản xuất hoặc tham gia điều hành sản xuất. Việc
đào tạo lại, cập nhật kiến thức cho các cán bộ quản lý, kỹ thuật
hầu như chưa thực hiên đạt yêu cầu, do vậy rất khó tiếp cận các vấn
đề mới, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học - công nghệ.
Việc
bố trí cán bộ không đúng chuyên môn đào tạo cũng là một trong những
nguyên nhân làm giảm hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp.
Trình
độ trang bị thiết bị quản lý, các tài liệu nghiên cứu khoa học - công
nghệ, các thông tin... đều hết sức hạn chế.
ThS.
NGUYỄN VĂN KHIÊM
Sở công nghiệp Lâm Đồng
Mục lục |
Sở khoa học - công nghệ môi trường |