Mục lục |
Sở khoa học - công nghệ & môi trường |
Thời gian gần đây, khi nói đến Lâm Đồng, nhân dân cả nước nói chung, giới khoa học xã hội và nhân văn
nói riêng, không chỉ hiểu đó là một tỉnh nằm ở Nam Tây Nguyên, có
thành phố Đà Lạt thơ mộng - một trung tâm du lịch nghỉ dưỡng của cả
nước, có cao nguyên Lâm Viên, cao nguyên Di Linh phì nhiêu, có rừng cấm
Cát Tiên - nơi có loài tê giác Java một sừng vô cùng quý hiếm, là
quê hương của chè, cà phê, dâu tằm tơ và quặng bôxít... mà đó còn
là một trong những vùng đất tụ cư lâu đời của các cư dân cổ đại,
là một vùng tiềm ẩn nhiều điều lý thú về khảo cổ học. Có được
cái nhìn và sự hiểu biết đó là có hoạt động điều tra, nghiên cứu,
sưu tầm và khai quật khảo cổ học ở Lâm Đồng trong thời gian qua
được tiến hành thường xuyên, rộng khắp và đã thu được những kết
quả đáng tự hào.
Ngay
từ năm 1983, Bảo tàng Lâm Đồng đã phối hợp với Ban khảo cổ thuộc
Viện khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành khai quật
khảo cổ tại khu mộ cổ Đại Làng thuộc hai xã Lộc Tân và Lộc Tiến
(huyện Bảo Lộc) trên diện tích hơn 500 m2 với hơn 10.000 tiêu bản,
thu được từ 18 ngôi mộ tại 10 gò các công cụ lao động như xà gạt,
lưỡi giáo..., đồ dùng gia đình như chóe, nồi, tô, bát bằng sành,
gốm sứ và đồ trang sức bằng đồng, đá, ốc, hạt cườm... cho thấy
đây là khu mộ cổ của cư dân bản địa có đời sống kinh tế khá phát
triển. Niên đại của khu di chỉ này vào khoảng thế kỷ XV-XVIII. Chủ
nhân của nó có thể là tổ tiên của người Mạ.
Sau
đó, do khó khăn về điều kiện kinh phí nên hoạt động khảo cổ bị
chững lại trong thời gian hơn 10 năm. Cho tới đầu năm 1994 mới tiến hành
khai quật khảo cổ tại khu mộ cổ thôn Đại Lào (xã Lộc Châu, huyện Bảo
Lộc). Trong 3 hố khai quật với 6 ngôi mộ, đoàn khai quật đã tìm
được hàng ngàn tiêu bản gốm sứ có nguồn gốc Chămpa, Trung Quốc, Việt
Nam; các công cụ lao động như xà bách, xà gạt, lao; các bao tay bằng
đồng... Về niên đại, khu mộ này được nhận định là có sự chồng
lấn về thời gian, tức là có ngôi mộ chôn trước, sau đó lại có sự
chôn chồng lên trên hoặc ngay bên cạnh. Do vậy niên đại khu một này
có thể kéo dài từ thế kỷ XVI-XIX.
Cuối
năm 1994, đầu năm 1995, sau 10 năm bị lãng quên kể từ khi được phát
hiện (1985), khu di chỉ Cát Tiên mới được đánh thức bởi cuộc khai
quật khảo cổ học lần đầu tiên tại gò 2a và gò số 4 do Bảo tàng Lâm
Đồng phối hợp với Viện khảo cổ học Việt Nam tiến hành. Sau đó, liên
tiếp trong các năm 1996, 1997, 1998, đã tiến hành tiếp 3 cuộc khai quật
khảo cổ tại gò 1a, 2b và số 5. Qua 4 đợt khai quật, khu di chỉ khảo cổ
học Cát Tiên đã dần dần được khám phá với những điều bí ẩn khá
tiêu biểu. Khu di chỉ này chia thành 7 cụm với 12 gò, trải dài trên hơn
2 km, có diện tích khoảng 24 ha thuộc thôn 1 và thôn 2 xã Quảng Ngãi
(huyện Cát Tiên). Di tích ở các gò này là các phế tích đền tháp và
mộ tháp được xây dựng bằng gạch nung và đá. Có những chi tiết
được chạm khắc khá tinh vi, sắc sảo. Trong lòng các đền tháp, mộ
tháp có những vật thờ, vật tùy táng bằng đá quý và kim loại màu vàng
dát mỏng có khắc miết hoặc dập nổi các hình ảnh thể hiện những tích
truyện của đạo Bà La Môn giáo. ở hầu hết các di tích đều tìm thấy
bộ ngẫu tượng Linga-Yoni bằng đá (kể cả đá quý) là vật thờ linh
thiêng của đạo Bà La Môn giáo.
Từ
kết cấu kiến trúc, chủng loại di vật thờ cúng, kỹ thuật chế tác các
vật thờ ... bước đầu các nhà chuyên môn nhận định khu di chỉ này
chịu ảnh hưởng rất sâu sắc của đạo Bà La Môn giáo. Niên đại của
nó có thể vào khoảng thế kỷ IX-XII. Chủ nhân của khu di chỉ có thể
là hậu duệ của một dòng tộc thuộc Vương quốc Phù Nam sau khi tan rã
phiêu bạt tới hoặc cũng có thể là tổ tiên của người Mạ - một cư
dân bản địa hiện vẫn còn sinh sống ở các vùng lân cận.
Với
tính đặc thù và giá trị nhiều mặt của khu di chỉ này, ngày
27.9.1997 Bộ Văn hóa - thông tin đã cấp bằng công nhận khu di chỉ Cát
Tiên là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.
Cuối
năm 1995 đã tiến hành khai quật khảo cổ học khu mộ cổ tại thôn 5 (xã
Đạ Đờn, huyện Lâm Hà) với diện tích 224 m2. Hiện vật thu được tại
khu di chỉ này cũng gồm các công cụ lao động như xà gạt, xà bách,
lao, kiếm; các đồ gia dụng như nồi, tô, bát bằng đất nung, gốm sứ
có nguồn gốc từ Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam; các đồ trang sức
như vòng đồng, hạt cườm, đá thạch anh... Niên đại của di chỉ này
có thể vào thế kỷ XVIII. Chủ nhân chủa nó có thể là người Mạ.
Tháng
11.1998, Bảo tàng Lâm Đồng lại phối hợp với Viện khảo cổ học Việt
Nam tiến hành khai quật khu di chỉ tại xã Phù Mỹ (huyện Cát Tiên). Có
thể nói, đây là khu di chỉ cổ xưa nhất được biết tới trên đất Lâm
Đồng cho tới thời điểm này. Trên diện tích 93m2 khai quật, đoàn
đã thu được hàng vạn mảnh gốm, hơn 100 bàn xoa gốm và nhiều dọi
xe chỉ, bàn mài, đặc biệt đã phát hiện được 8 khuôn đúc đồng bằng
đá cát. Bước đầu các nhà khảo cổ học nhận định đây là một di
chỉ cư trú thuộc thời đại kim khí có niên đại cách đây khoảng
3.000-2.500 năm. Cư dân ở đây là cư dân nông nghiệp biết trồng lúa,
dệt vải, làm gốm và đúc đồng giỏi. Qua so sánh những hiện vật thu
được, các nhà khảo cổ học nhận định di chỉ Phù Mỹ có quan hệ chặt
chẽ với các di chỉ cùng thời như Dốc Chùa, Tân Uyên (Sông Bé) nằm
dọc theo sông Đồng Nai. Thậm chí còn có sự giao lưu văn hóa với các
di chỉ khảo cổ ở vùng ven biển Nam Bộ, ở Campuchia và Đông Bắc Thái
Lan.
Cũng
cuối năm 1998, đầu năm 1999, Bảo tàng Lâm Đồng còn phối hợp với
Trung tâm khảo cổ học thuộc Viện Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ
Chí Minh tiến hành khai quật 2 khu di chỉ tại xã Pró (huyện Đơn Dương).
Tại đây đã tìm thấy phế tích của những đền thờ tồn tại có thể
từ thế kỷ XII-XIV được xây dựng bằng gạch nung và có những chi tiết
được tạo dáng khá công phu, sắc sảo. Riêng chủ nhân của khu di chỉ
này hiện còn là điều bí ẩn. Phải chăng là tổ tiên của người Chămpa
hoặc kết hợp giữa người Chămpa và người Churu?
Ngoài
công tác khai quật khảo cổ học, thời gian qua, Bảo tàng Lâm Đồng còn
phối hợp với Viện khảo cổ học Việt Nam và Trung tâm khảo cổ học thuộc
Viện khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành nhiều cuộc
điền dã, điều tra khảo cổ học tại hầu hết các huyện trong tỉnh và
đã thu được khá nhiều thông tin, cứ liệu có giá trị. Có thể nói,
ở tất cả các huyện ở Lâm Đồng đều có dấu vết cư trú của các cư
dân cổ đại. Từ Lạc Xuân, Ka Đô (Đơn Dương), đến Phú Sơn (Lâm Hà),
kéo dài qua Di Linh, Bảo Lộc, Bảo Lâm xuống đến Đạ Huoai, Đạ Tẻh,
Cát Tiên, ở đâu cũng có thể tìm thấy rìu đá, mộ táng, các đồ
gia dụng bằng gốm sứ cổ v.v...
Đồng
thời công tác sưu tầm hiện vật khảo cổ thời gian qua cũng thu được
kết quả khả quan. Nhiều rìu đá, nhiều đồ đồng, gốm sứ cổ đã
được sưu tầm, bổ sung làm phong phú thêm cho kho hiện vật của Bảo tàng
Lâm Đồng. Nhưng tiêu biểu nhất có lẽ là việc sưu tầm phát hiện ra
hai bộ đàn đá ở B?lao (1979) và Đinh Lạc (Di Linh) (1997).
Bên
cạnh đó, Bảo tàng Lâm Đồng còn phối hợp với các chuyên gia khảo cổ
học của Nhật Bản và Australia để nghiên cứu các hiện vật gốm sứ sưu
tầm khai quật được. Điều lý thú qua công tác nghiên cứu là ngoài
các hiện vật gốm sứ có xuất xứ từ Trung Quốc, Thái lan, Việt Nam, còn
có cả gốm sứ Hê-gen (Hégel) xuất xứ từ Nhật Bản đã có mặt tại Lâm
Đồng từ cách đây 3-4 thế kỷ.
Như
vậy, có thể nói, dưới sự chỉ đạo của UBND tỉnh, sự hỗ trợ giúp
đỡ của các cơ quan, ban, ngành, địa phương trong tỉnh và sự phối kết
hợp chặt chẽ của các cơ quan chuyên ngành khảo cổ học ở Trung ương,
thời gian qua ngành văn hóa - thông tin Lâm Đồng đã có sự quan tâm
thường xuyên, đúng mức tới hoạt động khảo cổ học tại địa phương
và đã thu được nhiều thành tựu khả quan. Từ chỗ là một vùng trắng
về khảo cổ học, đến nay đã từng bước phục dựng được bức tranh
quá khứ của địa bàn tỉnh Lâm đồng từ thời tiền sử, sơ sử đến
thời kỳ cận hiện đại. Điều đó giúp các nhà chuyên môn bước đầu
có cơ sở để nhận định rằng: Từ ngàn xưa, trên hầu hết các địa
phương thuộc tỉnh Lâm Đồng ngày nay, nhất là bên các dòng sông, dòng
suối lớn đã có các cư dân sinh sống. Ngoài nghề trồng trọt, săn bắn
muông thú, họ còn biết đúc đồng, biết làm đồ gốm thô, làm đồ mỹ
nghệ và có sự giao thương rộng rãi với các cư dân và quốc gia lân
cận. Cá biệt có vùng phát triển cực thịnh như vùng dọc sông Đồng
Nai thuộc huyện Cát Tiên ngày nay. Có 2 giả thuyết về chủ nhân của các
vùng đất này: có thể là người bản địa mà ngày nay vẫn còn tồn tại
như Mạ, K'Ho và Churu hoặc cũng có thể là người ở các vùng khác
phiêu bạt tới như người Chămpa hoặc hậu duệ của cư dân thuộc vương
quốc Phù Nam...
Điều
đó giúp chúng ta thêm trân trọng, tự hào về quá khứ và vững tin ở
tương lai phát triển của quê hương Lâm Đồng.
Trên
đây là những mặt làm được của hoạt động khảo cổ học tại Lâm
Đồng thời gian vừa qua. Bên cạnh đó còn có những tồn tại, khiếm
khuyết cần khắc phục.
Nổi
bật nhất là việc bảo vệ, tu bổ tôn tạo các di chỉ khảo cổ học hầu
như chưa làm được bao nhiều. Tất cả các di chỉ khảo cổ học đều bị
xuống cấp trầm trọng. Tuy có nhiều khu di chỉ và có những khu rất có
giá trị nhưng đến nay chưa có một di chỉ nào được tu bổ tôn tạo
nghiêm chỉnh để đưa vào khai thác sử dụng, phát huy tác dụng thông
qua việc tham quan, nghiên cứu, du lịch.
Kế
đó là đội ngũ cán bộ làm công tác khảo cổ còn rất hạn chế về
kiến thức chuyên môn. Vì vậy tất cả các đợt khai quật khảo cổ học
đều phải phối hợp với các cơ quan chuyên môn khảo cổ học ở Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh. Điều đó dẫn tới sự tốn kém về kinh phí
và rất bị động, nếu không muốn nói là bị lệ thuộc.
Từ
hai khiếm khuyết trên đặt ra vấn đề là UBND tỉnh cần nghiên cứu và
có sự đầu tư tập trung, đầu tư cần thiết nhằm tiến hành tu bổ tôn
tạo một vài khu di chỉ, trước hết là khu di chỉ khảo cổ học Cát Tiên
để sớm đưa vào khai thác phục vụ công tác tham quan nghiên cứu và
phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Đồng thời tạo điều
kiện cho ngành văn hóa - thông tin bồi dưỡng hoặc tuyển dụng những cán
bộ có trình độ chuyên môn về khảo cổ học để giúp chủ động trong
việc nghiên cứu khai quật khảo cổ học. Đó cũng là điều mong muốn và
kiến nghị mà ngành văn hóa - thông tin muốn gửi tới các cơ quan có
thẩm quyền.
Hy vọng rằng, trong thời gian tới, hoạt động khảo cổ học tại Lâm Đồng sẽ thu được nhiều thành tựu hơn nữa.
VŨ NHẤT
NGUYÊN
Sở văn hóa - thông tin Lâm Đồng
Mục lục |
Sở khoa học - công nghệ & môi trường |