Mục lục |
Sở khoa học - công nghệ & môi trường |
Phối
hợp thời gian sinh trưởng ngắn (90-100 ngày), tiềm năng năng suất, giá
trị dinh dưỡng và giá tiêu thụ cao, khoai tây là cây trồng có giá
trị kinh tế và thực phẩm thuộc loại cao nhất trong các cây lương thực,
thực phẩm. Khoai tây còn có tiềm năng lớn trong cơ cấu cây trồng
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trong tương lai.
BẢNG1: CHÍN CÂY LƯƠNG THỰC, THỰC PHẨM CÓ GIÁ TRỊ SẢN XUẤT CAO NHẤT/ha/ngày
TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Cây
trồng |
Thời
gian sinh trưởng (ngày) |
Năng
suất chất khô (kg/ha/ngày) |
Năng
lượng |
Protein |
Giá
trị sản xuất (USD/ha/ngày) |
Cải
bắp |
100 |
12 |
29 |
1,6 |
27,50 |
Cà
chua |
125 |
8 |
25 |
1,3 |
25,30 |
Khoai
tây |
100 |
18 |
54 |
1,5 |
12,60 |
Khoai
mỡ |
180 |
14 |
47 |
1,0 |
8,80 |
Khoai
lang |
180 |
22 |
70 |
1,0 |
6,70 |
Lúa
gạo |
145 |
18 |
49 |
0,9 |
3,40 |
Lạc
vỏ |
115 |
8 |
36 |
1,7 |
2,60 |
Lúa
mì |
115 |
14 |
40 |
1,6 |
2,30 |
Sắn |
272 |
13 |
27 |
0,1 |
2,20 |
Với
khí hậu mát lạnh quanh năm, khu vực Đà Lạt và vùng ven (Đơn Dương,
Đức Trọng) có điều kiện đặc biệt thuận lợi trồng khai tây hầu như
quanh năm. Trong khi 98% diện tích trồng khoai tây ở nước ta tập trung
ở đồng bằng sông Hồng, chỉ trong vụ Đông (3 tháng), và không địa
phương nào khác trồng được khoai tây, thì đây là tiềm năng đáng
kể của Lâm Đồng không những về sản xuất khoai tây thực phẩm mà còn
là tiềm năng quan trọng về sản xuất cung cấp giống khoai tây cho phía
Bắc.
MỘT SỐ TIẾN BỘ KỸ THUẬT ĐƯỢC NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN VÀ ÁP DỤNG TRONG THỜI GIAN QUA
1. Giống mới
Trước
1975, sản xuất khoai tây tập trung chủ yếu tại Đà Lạt với nguồn giống
nhập chủ yếu từ Tây Âu (Hà Lan, Pháp). Các giống chủ yếu trong sản
xuất là Greta, Cosima, Desiree, Patrones và Cardinal. Những năm sau giải
phóng, do nguồn nhập gián đoạn và giống cũ thoái hóa, năng suất, diện
tích và sản lượng khoai tây giảm mạnh. Năm 1977-1980, Trung tâm nghiên
cứu cây thực phẩm (NC CTP) Đà Lạt đã tiến hành khảo nghiệm và đưa
vào sản xuất các giống mới VĐ1, VĐ2. Trên cơ sở hợp tác với Trung
tâm khoai tây quốc tế (CIP), năm 1981-1984, các giống CFK-69.1 (06),
Atzimba (012), B-71-240.2 (04) và P-3 đã được phổ biến rộng rãi nhờ
khả năng kháng bệnh mốc sương và thích ứng tốt với điều kiện núi
cao nhiệt đới. Năm 1987-1990, từ bộ giống nhập từ CIP, giống Utatlan
(07) được tiếp tục phổ biến rộng rãi nhờ tiềm năng năng suất cao và
hình thức phù hợp với thị hiếu tiêu dùng.
Ngày
nay, các giống 07 và 06 là các giống được trồng rộng rãi nhất trên
địa bàn vùng rau thành phố Đà Lạt và các huyện Đơn Dương, Đức
Trọng. Tuy nhiên, các giống này còn một số hạn chế cơ bản:
-
Khả năng kháng mốc sương chỉ ở mức độ trung bình và mẫn cảm với
héo xanh do vi khuẩn;
-
Không chống chịu ruồi đục lá;
-
Chất lượng còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu thị hiếu tiêu thụ
cao cấp, chế biến và xuất khẩu.
Để
khắc phục các nhược điểm này, Trung tâm NC CTP Đà Lạt đã và đang
tiến hành các đề tài tạo giống khoai tây kháng ruồi đục lá, kháng
mốc sương, héo xanh và giống chất lượng cao cho chế biến công nghiệp
và xuất khẩu. TK-97-1, TK-97.2 kết hợp khả năng kháng mốc sương, kháng
ruồi và héo xanh vi khuẩn là các giống có nhiều triển vọng đang
được nhân nhanh để phóng thích vào sản xuất. Các giống TK-98.1,
TK-98.2 là các giống có tiềm năng năng suất, thời gian sinh trưởng ngắn
và chất lượng cao phù hợp với chế biến công nghiệp trong tương lai
cũng đang được khẳng định và nhân nhanh cho sản xuất.
2. Công nghệ sản xuất giống
ứng
dụng kỹ thuật nuôi cấy mô vào sản xuất giống khoai tây sạch bệnh là
tiến bộ kỹ thuật đặc biệt thành công tại Đà Lạt từ những năm
1980. Với thành công này, các giống mới được nhân và phát triển rộng
rãi với một tốc độ đáng kinh ngạc: trong vòng 3 năm, 1980-1983, hầu
như toàn bộ diện tích trồng khoai tây của Đà Lạt (400/ha/năm) đã
được phủ kín bằng những giống mới nhập nội từ CIP, có khả năng thích
ứng và kháng mốc sương tốt. Đây là tiến bộ kỹ thuật mang tính
đặc thù nhờ điều kiện khí hậu đặc biệt thuận lợi có thể nhân giống
quanh năm với quy mô lớn và sáng kiến xây dựng mô hình pilot nông dân
của Viện khoa học Việt Nam. Nhờ thành công này, năng suất khoai tây
trung bình tại Đà Lạt đã tăng từ 8-9 tấn/ha trước 1980 lên 14-15 tấn/ha.
Ngày nay, sản xuất giống và khoai tây thực phẩm sử dụng cây giống sạch
bệnh từ nuôi cấy mô đã là biện pháp kỹ thuật quen thuộc đối với
đa số nông dân Đà Lạt.
Trồng
khoai tây bằng hạt là công nghệ sản xuất mới được Trung tâm NC CTP
Đà Lạt tiến hành nghiên cứu xây dựng từ 1978-1980 tại Đà Lạt và
được Viện cây lương thực và cây thực phẩm phát triển rộng rãi tại
đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn 1980-1986. Năm 1987, công nghệ này
đã được Bộ nông nghiệp công nhận và cho phép ứng dụng rộng rãi
để đáp ứng nhu cầu bức xúc về giống khoai tây tại các tỉnh phía Bắc.
Ngày nay, với các giống khoai tây hạt lai mới, trồng khoai tây bằng hạt
là biện pháp công nghệ được áp dụng rộng rãi trên diện tích hàng
chục nghìn hecta với các thế hệ cây từ hạt và củ giống đời 1-2 từ
hạt. Với đời cây từ hạt, năng suất khoai tây có thể đạt 15-20 tấn/ha,
với đời củ giống 1-2 năng suất có thể đạt 25-30 tấn/ha, trong khi với
nguồn củ giống cũ đã thoái hóa năng suất chỉ đạt 8-10 tấn/ha.
Lợi
điểm quan trọng nhất của dùng hạt làm giống là:
-
Giảm chi phí đầu tư về giống và vận chuyển giống: để trồng 01
hecta khoai tây cần 2.000 kg củ giống tốt, trong khi chỉ cần 0,1 kg hạt;
-
Hạt là nguồn giống sạch bệnh vì hầu hết các bệnh virus, vi khuẩn không
truyền qua hạt;
-
Có thể nhanh chóng thay toàn bộ nguồn giống cũ đã thoái hóa bằng
nguồn sạch bệnh trên quy mô đại trà trong thời gian ngắn nhất, nâng
cao nhanh chóng năng suất, sản lượng và hiệu quả kinh tế của nghề trồng
khoai tây. Đây có lẽ là ưu thế quan trọng nhất của công nghệ trồng
khoai tây bằng hạt trong điều kiện một đất nước nông nghiệp là chính,
nông dân còn nghèo và chưa có một hệ thống sản xuất cung cấp giống
khoai tây có phẩm cấp.
Sản
xuất hạt khoai tây lai F1 cũng là công nghệ mới đặc thù do Trung tâm
NC CTP nghiên cứu xây dựng từ 1994-1998 và đã được Bộ nông nghiệp
và phát triển nông thôn công nhận là tiến bộ kỹ thuật cấp quốc gia
năm 1998. Với quy trình này, có thể sản xuất 200-500 kg hạt lai trong
nhà lưới có bổ sung quang chu kỳ (tổ hợp lai THK-94.3) và 150-200 kg
(Giống Hồng Hà 7) trong điều kiện đồng ruộng. Thay cho nguồn hạt thụ
phấn tự do, từ 1996, Trung tâm đã bắt đầu sản xuất, cung cấp hạt
lai của một số tổ hợp lai tạo trong nước và nhập nội của CIP với chất
lượng không thua kém hạt nhập khẩu và giá thành thấp hơn 40-50%:
-
1996: 2 kg (TKH-94.2, THK-94.3,
THK-94.10)
-
1997: 5 kg (HH2, HH7)
-
1998: 20 kg (HH2, HH7)
-
1999: 60 kg (HH2, HH7)
Hiện
nay, Trung tâm tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất siêu
hạt (superseed) khoai tây, đáp ứng nhu
cầu sản xuất khoai tây thực phẩm trực tiếp từ hạt giống.
BẢNG 2: NĂNG SUẤT HẠT THL HỒNG HÀ 7 VÀ NĂNG SUẤT CỦ DÒNG MẸ VỤ HÈ VÀ THU ĐÔNG - XUÂN 1998, TRỒNG TRÊN CÁC NỀN PHÂN ĐẠM VÀ MẬT ĐỘ TRỒNG KHÁC NHAU
|
|
|
||
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Sản
xuất củ giống mini sạch bệnh (Go, Pre-basic seed) là tiến bộ kỹ thuật
trong sản xuất giống khoai tây
ở Việt Nam. Hợp tác với CIP, từ 1991, Trung tâm NC CTP Đà Lạt đã tiến
hành nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất củ giống mini
sạch bệnh. Nhờ điều kiện khí hậu mát lạnh, có thể ứng dụng kỹ thuật
nuôi cấy mô nhân nhanh giống sạch bệnh quanh năm, công nghệ này cho
phép sản xuất khối lượng lớn củ giống mini sạch bệnh các giống
khoai tây chất lượng cao cho một hệ thống sản xuất, cung cấp giống có
phẩm cấp ở Việt Nam. Cấp giống gốc này có giá trị cao trên thương
trường thế giới - 1 USD/củ. Tuy nhiên, hiện nay, Trung tâm NC CTP Đà Lạt
sản xuất cung cấp cho miền Bắc với giá 900-2000 đ/củ để phục vụ sản
xuất và xây dựng một hệ thống nhân giống khoai tây. Hiện tại, Trung
tâm có phương tiện kỹ thuật đủ sản xuất 100-150 nghìn củ/năm. Dự
kiến sẽ đưa quy mô sản xuất lên 800 nghìn - 1 triệu củ/năm khi hình
thành hệ thống giống khoai tây ở nước ta.
3. Sản xuất khoai tây an toàn
Sản
xuất rau an toàn là một chương trình khoa học - công nghệ quan trọng
của Lâm Đồng. Năm 1996, Trung tâm NC CTP Đà Lạt đã phối hợp với Sở
khoa học, công nghệ và môi trường Lâm Đồng tiến hành đề tài nghiên
cứu xây dựng mô hình sản xuất rau an toàn tại Đà Lạt. Cây khoai tây
là một đối tượng nghiên cứu của đề tài này. Kết quả thử nghiệm
quy trình sản xuất khoai tây an toàn cho thấy áp dụng đúng các biện
pháp bón phân và sử dụng nông dược sẽ có sản phẩm an toàn với dư
lượng thuốc trừ sâu bệnh, nitrate và kim loại nặng dưới ngưỡng cho
phép. Quy trình này cũng đã được Bộ nông nghiệp và phát triển nông
thôn công nhận là tiến bộ kỹ thuật cấp quốc gia và Hội đồng khoa học
của tỉnh Lâm Đồng đánh giá cao và cho áp dụng rộng rãi trong sản
xuất.
TIỀM NĂNG VÀ TRIỂN VỌNG CẦN ĐẦU TƯ KHAI THÁC
Khả
năng trồng khoai tây quanh năm là một ưu thế đặc thù của khí hậu
Đà Lạt và vùng ven. Điều kiện khí hậu mát lạnh quanh năm cho phép
tiến hành công tác nghiên cứu chọn tạo giống và nhân nhanh giống 2-3
vụ mỗi năm.
Với
công tác tạo giống, chu kỳ chọn giống có thể rút ngắn 2 lần so với
đồng bằng sông Hồng. Với việc nhân nhanh và sản xuất giống, có thể
tiến hành quanh năm để có quy mô lớn với các chi phí thấp hơn, hiệu
quả cao hơn. ở đồng bằng sông Hồng, các công tác này chỉ tiến hành
được trong 3-4 tháng trong vụ Đông Xuân do điều kiện nhiệt độ cao
trong các giai đoạn khác trong năm.
Đặc
biệt hơn cả là điều kiện vụ Hè của Đà Lạt rất phù hợp với sản
xuất hạt lai khoai tây do khả năng ra hoa kết quả rất tốt của các giống
bố mẹ. Đồng bằng sông Hồng không thể sản xuất được hạt lai trong
điều kiện đồng ruộng do điều kiện ánh sáng và nhiệt độ không phù
hợp cả trong vụ Hè và vụ Đông. Miền núi phía Bắc lại quá lạnh với
quang chu kỳ quá ngắn trong vụ Đông, trong khi mưa quá nhiều và sớm
trong vụ Xuân - Hè.
Tiềm
năng nói trên cho thấy triển vọng đầu tư xây dựng Đà Lạt và vùng
ven thành vùng sản xuất khoai tây thực phẩm và khoai tây giống cấp
cao của cả nước. Đà Lạt có thể sản xuất đủ hạt khoai tây lai cho
nhu cầu sản xuất trong nước, xuất khẩu và sản xuất cung cấp đủ giống
gốc sạch bệnh cho một hệ thống giống khoai tây có phẩm cấp phía Bắc.
Đà Lạt cũng có đủ điều kiện để sản xuất cung cấp khoai tây thực
phẩm quanh năm cho các tỉnh phía Nam và đặc biệt có tiềm năng là vùng
nguyên liệu có khả năng cung cấp quanh năm cho xuất khẩu và công nghiệp
chế biến thực phẩm từ khoai tây.
Vấn đề còn lại là cần có đầu tư phát triển để có công nghiệp sản xuất giống, sản xuất khoai tây chất lượng cao và công nghiệp chế biến, xuất khẩu, kịp đáp ứng nhu cầu an toàn lương thực và tiêu dùng cao
cấp hơn trong tương lai, khi dân số nước ta vượt qua 100 triệu và có thị hiếu tiêu thụ cao cấp hơn.
PHẠM
XUÂN TÙNG
Trung tâm nghiên cứu cây thực phẩm Đà Lạt
Mục lục |
Sở khoa học - công nghệ & môi trường |