Trang trước || Mục lục || Trang sau |
|
HOA
VÀ ĐỜI SỐNG |
|
Từ
cổ xưa cho đến ngày nay, dẫu cho những quan niệm về những cái
đẹp đã bao lần thay đổi, hoa vẫn mãi mãi có sức hấp dẫn lạ
kỳ. Hoa hấp dẫn bởi không phải chỉ vì hương sắc quyến rũ, dáng
vẻ yêu kiều gần gũi của nó, mà còn bởi một sức mạnh tinh thần
rất kỳ diệu huyền bí mà con người cảm nhận được ở hoa. Hoa
luôn luôn là biểu tượng của cuộc sống tâm hồn, là tình yêu,
là cái đẹp. Hoa góp vui, chia buồn, góp phần làm cho tình người
thêm đẹp, cuộc sống thêm tươi. Trong khẩu hiệu đấu tranh cách
mạng "Bánh mì và hoa hồng" do V. I. Lênin khởi xướng, hoa
đã được nâng lên thành một biểu tượng của cuộc sống tinh thần,
một cuộc sống thứ hai của
con người, cao hơn, tốt đẹp hơn.
Mỗi
loài hoa, mỗi màu hoa có tiếng nói tình cảm của riêng mình. Mỗi
dân tộc có tục lệ chơi hoa và cảm nhận về hoa cũng khác nhau.
Cho nên khi tặng hoa cho người nước ngoài, cần phải biết phong tục
của họ. Hoa hồng được coi là
hoàng hậu, là bà chúa của các loài hoa. Vì vậy ở một số nước
châu Âu có tục lệ khi tặng hoa hồng người ta chỉ tặng một bông.
Nếu tặng nhiều hơn sẽ bị coi là hợm mình là không hiểu hết giá
trị của hoa. Hoa cúc bạch nhật là biểu tượng của tấm lòng
trung hậu, nhân đức. Hoa Tuy líp còn gọi là hoa Uất kim cương
hoặc hoa Vành khăn biểu tượng của lòng tin, hy vọng và sự chiến
thắng. Vì vậy ở châu Âu vào dịp đầu năm, người ta hay tặng
nhau hoa Tuylip. Dân tộc Nga có tục lệ khi trai gái yêu nhau để
thay cho những tình cảm khó nói ra bằng lời đó, các chàng trai
thường dùng hoa Tuylip đỏ thắm để tỏ tình cùng cô gái. Thật
là lố bịch nếu tặng Tuylip đỏ cho những phụ nữ đã quá luống
tuổi hoặc đã có chồng.
Còn hoa Thiên điểu được coi là ?sứ giả báo tin vui?. Sẽ rất
bất nhã nếu bạn tặng hoa Thiên điểu cho người nào khi chẳng có
tin vui gì để báo cho họ. Còn hoa bông trang (hoa mẫu đơn) là
hiện thân của sự hoài nghi. Cho nên sau khi tặng hoa cho người mình
yêu, đóa hồng hoặc Tuy lip hoặc cánh Păngxê mà còn nhận lại
nhành hoa Trang có nghĩa là bạn
đã bị từ chối hoặc đối tượng của bạn còn phân vân, nghi ngại.
Ở các nước châu Á, người ta coi hoa huệ là biểu tượng của sự
thanh cao. Cho nên từ thuở rất xa xưa trong lịch sử, hoa huệ
được chọn làm lễ vật hiến Phật tổ. Tục lệ này bắt nguồn từ
Ấn Độ, sang Trung Quốc, Nhật Bản rồi lan sang các nước khác.
Hoa nhài không bao giờ được đem đặt lên bàn thờ tổ tiên bởi
vì nó bị coi là thứ trăng hoa thấp hèn. Ở nước ta, việc dâng
hoa cúng lễ tổ tiên xuất hiện rất lâu đời, ngày nay và có lẽ
mãi mãi về sau tục lệ tốt đẹp ấy sẽ tồn tại muôn đời cùng
dân tộc ta. Trong ngày giỗ, lễ sinh nhật, cuộc tiễn đưa, buổi
đón khách, hội hè... ít khi vắng hoa tươi. Con người ta suốt cả
cuộc đời gắn bó cùng hoa.
Hoa
làm cho tâm hồn người ta vui tươi, thanh thảnh. Trong nhiều tháng
năm dài gian khổ, chiến tranh diễn ra tàn khốc, anh lính cụ Hồ
đã trồng hoa trên ụ pháo, bên miệng hố tránh bom cá nhân, giữa
những lán trại ở nơi đèo heo hút gió trên điểm tựa tiền tiêu,
trên chốt, những nơi ngày đêm thu hút pháo địch, đạn thù,
hoa đã cùng người chiến sỹ bầu bạn sớm khuya.
Trong
bài thơ "Thăm hầm pháo thủ" Nguyễn Xuân Niên đã nói được
phần nào tâm hồn người chiến sỹ yêu hoa:
"Đây rồi "nhà pháo" rộng thênh thanh
Hào
nối qua hầm, gian tiếp gian
Mấy
khóm hoa tươi cười trước cửa
Bóng mây lồng bóng lá nguỵ trang"
và
trong một bài thơ khác, Nguyễn Bao viết:
"Ngang điểm tựa sườn non
Một
gốc đào tỏa sáng
Quên
gió lạnh ngày đông Sắc hoa thành lửa ấm"
Năm
1972, thời kỳ Hà Nội sục sôi chiến đấu chống chiến tranh phá
hoại của giặc Mỹ là thời kỳ chưa từng bao giờ như vậy, Hà Nội
dấy lên sâu rộng phong trào chơi phong lan. Từ các chiến trường
Trường Sơn, Đông Nam Bộ, hoa phong lan theo các đoàn xe về thăn
Thủ đô Hà Nội. Tai trâu được mùa chưa từng có. Và thật bất
ngờ, sau suốt mười hai ngày đêm kịch chiến trên không, cả Hà
Nội vết thương chiến tranh vẫn chưa
lành miệng, Tết năm ấy ở chợ hoa truyền thống Hà Nội tràn
ngập hoa tươi. Hoa giăng hàng mở hội, phô sắc khoe hương khắp
mấy phố dài. Từ Cống Chéo đến Hàng Lược, Hàng Giấy, Hàng Chả
cá, Đường Thành tràn cả ra đường Phan Đình Phùng từng làm xúc
động triệu triệu tấm lòng, thu hút bao nhiêu ống kính của khách
nước ngoài. Hoa xua tan bóng ma giặc Mỹ, đẩy lùi nỗi khổ đau mất
mát, làm tăng thêm niềm kiêu hãnh tự hào của người chiến thắng.
Từ
Âu sang Á, tận cổ chí kim, trẻ già, trai gái ai ai cũng yêu hoa.
Thời nào, dân tộc nào hoa cũng là biểu tượng cho những tấm lòng
cởi mở, đôn hậu, niềm vui và cái đẹp. Cuộc sống càng sung túc,
kinh tế càng phát triển, lao động càng đi vào công nghiệp, nhu
cầu về hoa tươi càng lớn, nghề trồng hoa càng có tiền đồ rạng
rỡ.
Ngay
từ thế kỷ thứ XI, việc sử dụng hoa tươi để trang trí nội thất
đã trở thành phổ biến ở nhiều nước châu Á, châu Âu. Sang thế
kỷ XVIII, hoa trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học trên thế giới. Thế kỷ thứ XIX bắt đầu xuất hiện những
học thuyết khoa học đầu tiên về hoa. Năm 1894, Habegi người
Italia và Becxây, người áo đưa ra giả định rằng: Hoa có nguồn
gốc từ cành và nhánh con của cây bị biến dạng do sự thay đổi
môi trường sống. Trên cơ sở học thuyết này của Habegi, các nhà
sinh lý học thực vật Xô
viết tiếp tục nghiên cứu và đã khẳng định được rằng: Hoa là
kết quả biến đổi của lá và chồi non của cây, tạo thành dưới
tác động điều tiết của các hoóc-môn thực vật.
Phát
hiện này đã mở cho các nhà nông, những người làm vườn bước
ngoặt quan trọng trong nhận thức về cây trồng, giúp họ nắm
được kỹ thuật điều khiển sự ra hoa, sự nảy mầm của cây trồng
bằng các tác nhân lý hóa.
Vào
những ngày cuối thu và suốt cả mùa đông dài, châu Âu mà kiếm
được mấy bông hoa tặng thầy, tặng bạn, tặng những người thân
yêu trong gia đình nhân ngày sinh, ngày cưới hay một ngày vui nào
đó là cả một vấn đề. Hoa đã đắt lại hiếm. Để có hoa tươi
dùng vào mùa đông, người ta phải nhập hoa từ những nước xa xôi
ở nhiệt đới với giá rất đắt hoặc phải trồng hoa trong những vườn
nhà kính. Tiền đầu tư cho mỗi hecta vườn kính rất lớn, thiết
bị thường phải mua của Hà Lan. Ở Pháp, để xây dựng một hecta
vườn kính trồng hoa chỉ riêng đầu tư cho việc mua sắm các thiết
bị như vòm kính máy phun, hệ thống tự động điều chỉnh nhiệt
độ, độ ẩm, ánh sáng đã tốn trên hai triệu frăng. Trong khi
đó, ở nước ta, đặc biệt là ở Đà Lạt không những có thể trồng
hoa quanh năm mà còn có thể trồng rất tốt những loài hoa quý xứ
lạnh như Layơn, cúc, thược dược, các loại lan. Phong lan và
địa lan không chiếm nhiều đất, không xen lấn các cây trồng khác,
trồng lan không sợ mất đất. Nếu chúng ta thực hiện được khẩu hiệu: "nhà nhà trồng lan", "người người trồng lan", đưa lan vào mỗi vườn nhà, vào trong từng khung cửa sổ, trên mỗi bậu lan can như điều phần đông bà con Đà Lạt hằng mong ước là chúng ta góp phần mở rộng xuất khẩu, góp phần thực hiện có hiệu quả 3 mục tiêu kinh tế lớn của nhà nước: lương thực, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Điều này sẽ không có thể khôi phục lại số lượng vài ba chục tấn hoa tươi xuất khẩu hàng năm như trước đây mà chắc chắn còn có thể nâng cao con số lên cao hơn nữa. Làm được như vậy sẽ tạo công ăn việc làm cho bà con trong thành phố, tăng thu nhập cho mỗi gia đình kể cả công nhân, nông dân, cán bộ. |
|