![]() |
|
CHƯƠNG
I
VÀI
NÉT GIỚI THIỆU VỀ LAN CYMBIDIUM
Cymbidium
được mệnh danh là nữ hoàng của các loài lan nhờ chúng có những điểm
nổi bật cả về giá trị khoa học lẫn giá trị mỹ thuật. Vẻ tao nhã, hài
hòa của chúng từ lâu đã hiện diện trong văn học, nghệ thuật và gắn
liền với đời sống văn hóa của người Á Đông.
Đầu
thế kỷ 14, những bức tranh thủy mặc vẽ hoa Cymbidium
đã ra đời ở Trung Hoa. Có lẽ sau đó hình ảnh hoa lan Cymbidium trên tranh mộc dân gian Việt Nam về hoa cảnh 4 mùa
(xuân lan, thu cúc) mới phổ biến. Đến nay những nét vẽ cổ xưa đó còn
thể hiện trên tranh sơn mài truyền thống của ta.
PHÂN
LOẠI
Bản
mô tả Cymbidium xưa nhất đã tìm
thấy có lẽ mô tả loài Mặc lan (Cym.
ensifolium) trong sách ghi chép về thực vật chúng của Trung Hoa khoảng
cuối thế kỷ thứ 3 sau công nguyên.
Trong
hệ thống phân loại thực vật của thế giới ngày nay, người ta đã xếp
riêng Cymbidium vào một chi, chi này
đã được nhà thực vật học người Thụy Điển Otto Swartz mô tả năm
1799. Trong khóa phân loại của Lindley - Bentham - Brieger năm 1983, chi Cymbidium thuộc tông phụ Cymbidinae,
tông Dendreae, phân họ Orchidoideae.
Theo
tài liệu về thực vật ở Đông Dương, từ năm 1932, Henri Lecompte cho rằng
chi này có 120 loài. Gần đây, năm 1978 Jean Carmard sắp xếp lại và xác
định có khoảng 60 loài. Những nhà phân loại học Việt Nam như Phạm
Hoàng Hộ, Võ Văn Chi... đã giới thiệu ở nước ta có khoảng 12 loài.
Các loài thuộc chi Cymbidium phân bố chủ yếu ở châu Á, từ dãy Hy Mã Lạp Sơn
(Hymalaya) đến Nam Trung Quốc (Vân Nam), các nước Đông Dương, Miến
Điện, Thái Lan ... và một vài loài phân bố ở các châu lục khác. |
Sở khoa học, công nghệ và môi trường Lâm Đồng |