Trang trước | Mục lục | Trang sau | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Để
nâng cao hiệu suất và phẩm chất chè, công tác bảo vệ thức vật là một
khâu trọng yếu. Với việc nghiên cứu biện pháp phòng trừ tổng hợp: Xác
định thời điểm gây hại, ngưỡng gây hại, liều lượng phun thuốc hữu
ích... những kết quả này là những căn cứ khoa học cần được triển
khai áp dụng vào sản xuất.
I.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sâu
hại chè ở Việt Nam có rất nhiều loài, nhưng những loài hại chủ yếu
hiện nay là: Rầy xanh, nhện đỏ nâu, bọ cánh tơ, bọ xít muỗi... về
bệnh, có bệnh chấm xám, bệnh chết loang, bệnh thối búp... Việc nghiên
cứu phòng trừ các đối tượng này đã được tiến hành từ những năm
1970. Nhưng cho đến nay, chúng ngày càng phát triển tăng về mật độ
và số lượng cá thể. Do sử dụng các loại thuốc trừ sâu với lượng
chưa đúng, đã gây nên sự phá vỡ cân bằng sinh thái của sâu bệnh
chè. Một số đối tượng nổi lên thành dịch trong vòng 3 năm trở lại
đây: Nhện đỏ tươi (Brepacpus californicus banks), hại cuống lá, làm
thâm đen thân, rụng hàng loạt lá chè như ở Xí nghiệp chè Sông Lô,
Tuyên Quang, Phú Hộ..., Nhện hồng (Eryophyes theae watt), hại trên lá chừa
giống PH1 ở Xí nghiệp chè Phú Hộ, Phú Thọ, Vân Hùng... và
mới đây năm 1994 rệp phẩy và rệp sáp bông sơ trắng xuất hiện và
phá mạnh trên giống 777.
Để
hạn chế mức độ gây hại của sâu bệnh, giữ sâu hại dưới ngưỡng gây
hại kinh tế, đồng thời nhằm duy trì và bảo vệ quần thể ký sinh thiên
địch tự nhiên, chúng tôi tiến hành đề tài "Nghiên cứu biện
pháp phòng trừ tổng hợp sâu bệnh hại chè" với 4 định hướng:
-
Nghiên cứu nắm vững qui luật phát sinh, gây hại của từng đối tượng
sâu bệnh hại.
-
Nghiên cứu sử dụng ngưỡng phòng trừ: Trước hết đối với rầy xanh,
nhện đỏ nâu và bọ cánh tơ.
-
Thử nghiệm biện pháp canh tác, giống, hái, trồng xen cây bóng mát, phân
bón...
-
Xác định liều lượng phun thuốc hóa học hợp lý và hạn chế đến mứu
tối thiểu sự gây hại đối với các loài thiên địch trên chè. II. PHƯƠNG PHÁP
-
Chọn điểm điều tra theo phương pháp 5 điểm chéo góc.
+
Đối với rầy xanh, thiên địch: Dùng khay có đầu: 25 cm, chỉ tiêu:
con/khay.
+
Đối với nhện đỏ: Mỗi điểm ngắt 10-20 lá bánh tẻ, dùng kính lúp
đếm số nhện trên lá, chỉ tiêu: Con/lá.
+
Bọ cánh tơ: Mỗi điểm ngắt 10-20 búp chè, dùng kính lúp đếm số bọ
cánh tơ trên búp, chỉ tiêu: Con/búp.
+
Bọ xít muỗi: Mỗi điểm ngắt 10-20 búp chè, tính tỷ lệ búp bị hại,
chỉ tiêu: Tỷ lệ hại (%).
+
Bệnh chấm xám: Mỗi điểm ngắt 10-20 lá bánh tẻ, tính tỷ lệ búp bị
bệnh, chỉ tiêu: Tỷ lệ lá bệnh (%).
-
Các thí nghiệm khảo nghiệm thuốc được bố trí theo khối ngẫu nhiên,
3 lần nhắc lại, diện tích ô: 100 m2. Số liệu được xử lý theo công
thức HENDERSON- TILLTON.
III.
KẾT QUẢ
1.
Qui luật phát sinh gây hại của sâu bệnh trong năm:
Qua
3 năm nghiên cứu cho thấy:
-
Trong năm rầy xanh phát sinh gây hại nặng nhất vào thời điểm tháng
3-5, đa số các vùng chè bị cháy rầy ở thời điểm cuối tháng 4 đầu
tháng 5. Một đỉnh cao gây hại thứ hai nhưng mức độ thấp hơn là tháng
10-11. Trong các giống đang trồng hiện nay, giống PH1 bị hại nặng nhất
, tiếp đến là giống Trung du và 777. Song song với rầy xanh, nhện đỏ
nâu cũng phát sinh sớm từ tháng 3, nhưng đỉnh cao gây hại của chúng
là tháng 4-6. Giống bị hại nặng là giống PH1, Trung du.
-
Bọ cánh tơ gây hại muộn, mức độ gây hại nặng nhất là khoảng tháng
6-7. Giống Trung du và 777 bị hại nặng nhất.
-
Đối với bọ xít muỗi và bệnh chấm xám trên chè, chúng gây mạnh vào
tháng 8-9 và đặc biệt nặng trên 2 giống 777 và 1A.
2.
Ngưỡng mật độ kinh tế cần phòng trừ đối với 1 số sâu hại: Để áp dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp (IPM) trên chè ngoài việc nắm vững qui luật phát sinh gây hại của từng đối tượng sâu bệnh hại, cần phải xác định được ngưỡng mật độ kinh tế cần phòng của từng đối tượng. Bảng 1: MỐI LIÊN HỆ GIỮA MẬT ĐỘ VÀ TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI CỦA RẦY XANH
Từ
bảng 1 cho thấy cần phải phun thuốc trừ rầy xanh khi mật độ điều tra
vượt quá 5 con/khay. Bảng 2: MỐI LIÊN HỆ GIỮA MẬT ĐỘ VÀ TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI CỦA NHỆN ĐỎ
Từ
bảng 2 cho thấy để phun thuốc trừ nhện đỏ kịp thời, tránh nhện gây hại quá nặng mới phun thuốc, cần thiết phải
phun thuốc khi mật độ ngưỡng điều tra vượt quá 5 con/lá.
Bảng 3: MỐI LIÊN HỆ GIỮA MẬT ĐỘ VÀ TRIỆU
Đối
với bọ cánh tơ từ bảng 3 cho thấy rằng, cần phải phun thuốc trừ khi
mật độ điều tra 1-2 con/búp. 3. Ảnh hưởng của cây bóng mát đến biến động số lượng sâu bệnh hại và thiên địch trên chè
Biện
pháp canh tác là một trong những biện pháp quan trọng của IPM trên chè
bao gồm: Bón phân đủ và cân đối, hái búp đúng kỹ thuật, trồng
xen cây bóng mát trên đồi chè. Kết quả điều tra theo dõi về ảnh hưởng
của cây bóng mát đến biến động số lượng sâu hại và thiên địch
trên chè được ghi nhận ở bảng 4. Bảng 4
Việc
trồng cây bóng mát trên các đồi chè thâm canh có tác dụng làm giảm
mật độ của rầy xanh, nhện đỏ nâu, bọ cánh tơ và bệnh chấm xám trên
chè, đồng thời còn làm tăng mật độ và thành phần của các loài sâu
có ích. Nhưng bên cạnh đó cây bóng mát đã làm tăng sự phá hại của
bọ xít muỗi, do vậy cần phải chú ý mật độ trồng và cần phải thường
xuyên phát tỉa cành. 4. Ảnh hưởng của thuốc hóa học đối với thiên địch trên chè
Để
tiến tới chọn lọc một bộ thuốc trừ sâu phun cho chè, việc khảo sát
ảnh hưởng của thuốc đối với các loài thiên địch là việc cần thiết
và đã thu được một số kết quả như ở bảng 5. Bảng 5: ẢNH HƯỞNG CỦA THUỐC HÓA HỌC ĐỐI VỚI MỘT SỐ LOÀI THIÊN ĐỊCH TRÊN CHÈ (bình quân sau 14 ngày phun)
Qua
bảng 5 cho thấy: Thuốc Sherpa là loại thuốc rất nguy hại đối với các
loài thiên địch trên chè, có nhiều loài bị tiêu diệt hoàn toàn sau
phun thuốc 14 ngày. Điều đó phần nào giải thích sự bùng nổ mật
độ sâu hại sau khi phun thuốc Sherpa. Thuốc Padan cũng có ảnh hưởng
khá rõ đối với nhện mình đen chân xám và các loài nhện lớn ăn thịt.
Riêng thuốc Trebon 10EC ảnh hưởng không đáng kể đối với các loài
thiên địch (hiệu lực của nó thấp nhất trong 3 loại thuốc đang dùng
phổ biến hiện nay trên chè).
Từ
những kết quả nghiên cứu trên, năm 1995, chúng tôi tiến hành chỉ
đạo thử "Phòng
trừ tổng hợp sâu bệnh" trên 2 lô thuộc Nông trường thực nghiệm
chè Phú Hộ (bảng 6).
Bảng 6: SO SÁNH CÁC CÁCH PHUN
Qua thử nghiệm cho thấy: Nếu phun theo ngưỡng mật độ kinh tế cần phòng trừ sẽ giảm được số lần phun thuốc, giảm lượng thuốc phun và tăng năng suất rõ rệt búp chè tươi. *
Từ
những kết quả nghiên cứu nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng qui luật
phát sinh gây hại của những đối tượng chủ yếu: Rầy xanh và nhện
đỏ thường phát sinh sớm vào tháng 3, gây hại vào tháng 4-5 và tháng
10-11. Giống bị hại nặng là PH1 và Trung du. Bọ cánh tơ gây hại vào
tháng 6-7, giống mẫn cảm là giống 777 và Trung du. Bọ xít muỗi và bệnh
chấm xám, gây hại nặng vào tháng 8-9, nhất là trên 2 giống 777 và
1A.
Trong
công tác phòng trừ tổng hợp chúng ta cần lưu ý một số điểm sau:
+
Ngưỡng mật độ cần áp dụng:
-
Rầy xanh: Cần tiến hành phun thuốc khi mật độ rầy điều tra vượt quá
5 con/khay.
-
Nhện đỏ: Phải phun thuốc khi mật độ nhện điều tra vượt quá 5 con/lá.
-
Bọ cánh tơ: Cần phải phun thuốc khi mật độ điều tra: 1-2 con/búp.
+
Trồng cây bóng mát trên các đồi chè có tác dụng làm giảm mật độ
của rầy xanh, nhện đỏ, bọ cánh tơ và bệnh chấm xám, đồng thời cũng
làm tăng mật độ và thành phần các loài thiên địch có ích. Tuy vậy
cần chú ý mật độ trồng để giảm sự phá hại của bọ xít muỗi và một
số đối tượng sâu hại khác.
+
Để đảm bảo an toàn cho các loài thiên địch, giữ vệ sinh môi trường
và ít độc hại cho người sử dụng, cần loại bỏ việc dùng thuốc
Sherpa phun cho chè và nên sử dụng thuốc Trebon 10EC.
LÊ
THỊ NHUNG NGUYỄN THÁI THẮNG
Viện
nghiên cứu chè
Biên tập:
Nguyễn Công Mai |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Trang trước | Mục lục | Trang sau |