Trang trước || MỤC LỤC|| Trang sau |
|
DÂN TỘC MƯỜNG
Dân
tộc Mường, có dân số 914.596 người. Đồng bào có địa bàn cư
trú chủ yếu tại các tỉnh: Hòa Bình, Hoàng tiên Sơn, Vĩnh
Phú, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An v.v...
Theo
tổng điều tra dân số (1-4-1989), ở Lậm Đồng có trên 522 người
Mường sinh sống. Hiện nay (1-10-1997) có khoảng 915 người.
Nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng, người Việt (Kinh) và người Mường có
chung một nguồn gốc là cư dân bản địa nước ta. Họ đều là
con cháu của người Lạc -Việt (hay người Việt cổ) và là một
trong những chủ nhân của nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng.
Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, từ một khối cộng đồng
chung, người Mường và người Kinh đã phân hóa thành hai dân
tộc như hiện nay. Tuy vậy, do cư trú gần nhau, do cu giao lưu tiếp
xúc với nhau, và nhất là cùng chung lưng đấu cật trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước, nên người Kinh và người Mường
vẫn giữ được mối quan hệ gần gũi, thân thiết.
Là
cư dân canh tác lúa nước từ lâu đời, người Mường có nhiều
kinh nghiệm làm thủy lợi nhỏ trong điều kiện miền núi. Để
đưa nước vào ruộng, đồng bào Mường, đắp phai làm xẹ cọn
và máng nước, dẫn nước từ các sông suối vào ruộng. Lúa là
cây lương thực chính của đồng bào. Ngoài ruộng lúa nước,
trên rẫy, còn trồng thêm các loại rau, đậu, hoa màu
như ngô, khoai, sắn.v.v...
Những
sản phẩm từ nghề chăn nuôi, trong từng gia đình không những
thỏa mãn nhu cầu của đời sống hàng ngày, mà nhiều khi còn dùng
trong trao đồi với các vùng khác...
Thu
nhặt và khai thác lâm - thổ sản từ rừng cũng là nguồn
kinh tế phụ đáng kể, một phần dùng trong gia đình, một phần
lớn dùng để trao đổi, buôn bán như : mộc nhĩ, nấm hương,
sa nhân, cánh kiến, mật ong v.v... ở những nơi giao thông thuận
tiện, đồng bào còn khai thác gỗ, song mây, bương, tre, nứa làm
hàng hóa trao đổi...
Người
Mường biết làm các nghề thủ công gia đình
như: rèn, đan lát, đồ mộc, ép dầu thảo mòc. Đặc sắc nhất
là nghề dệt thổ cẩm với kỹ thuật, mỹ thuật trang trí hoa văn
trên nền vải có nhiều màu sắc hài hòa cùng với các họa tiết
tinh vi, độc đáo và mang đậm sắc thái văn hóa dân tộc.
Nhìn
chung, nền kinh tế truyền thống của người Mường vẫn là một nền
kinh tế nông nghiệp, mang nặng tính chất tự cấp, tự túc kinh tế
hàng hóa kém phát triển.
Đặc
điểm của xã hội cổ truyền của người Mường là sự phân hóa
giai cấp khá rõ nét biểu hiện qua chế độ lang đạo. Các dòng
họ quý tộc như: Đinh, Quách, Bạch, Hà v.v. .. chia nhau cai quản
các vùng Mường và nắm trong tay quyền phân phối ruộng đất
Đứng đầu mỗi mường, là một lang cun - vị chúa đất tối cao
của một vùng. Dưới lang cun, là lang xóm hoặc đạo xóm cai quản
một xóm. Chế độ lang, đã được cha truyền con nối.
Gia
đình người Mường là loại hình gia đình như phụ quyền. Người
cha có quyền quyết định mọi việc trong gia đình. Quyền thừa kế
tài sản truyền thống chỉ dành cho người con trai, trong đó người
con cả được phần nhiều hơn.
Theo
tín ngưỡng dân gian truyền thống, người Mường thờ cúng bản
mường, và tổ tiên. Các dòng họ nhà lang thường có tục kiêng
cữ không chặt, giết và ăn thịt một loại cây, con nhất định
có liên quan đến tín ngưỡng vật tổ. Các lễ nghi nông nghiệp
với việc thờ cúng thuồng luồng (vua nước), còn khá phổ biến
trong các bản mường.
Người
Mường có nền văn học nghệ thuật dân gian khá phong phú bao gồm
nhiều thể loại như : sử thi- trường ca, các bài mo, các truyện
cổ, các thể loại dân ca (xường), ví đúm, ca dao, tục ngữ. Bài
mo ''đẻ đất đẻ nước'', ''các truyện thơ', ''út lót Hồ-tiêu,
''nàng Nga Hai Uối'', ''nàng ổm'', ''Chàng Bồng Hương'', ''Con Côi''
v.v ... là những tác phẩm dân gian nổi tiếng được nhiều người
ưa thích. Về âm nhạc, ngoài những nhạc cụ như: nhị, sáo, khèn bè, ống ôi v.v . .. người Mường rất ưa chuộng bộ nhạc cồng. Cồng có nhiều loại to, nhỏ, âm thanh khác nhau, được tổ chức thành dàn, gọi là nhạc cồng. Các nhà khảo cổ học thường gọi trống đồng Hêgơ loại II, là trống đồng Mường, một loại nhạc cụ truyền thống của đồng bào Mường. |
Trang trước || MỤC LỤC|| Trang sau |