Trang trước || MỤC LỤC || Trang sau |
|
DÂN TỘC RAGLAI Với dân số (theo tổng điều tra dân số 01/04/1989) có khoảng 7 l.696 người, dân tộc Raglai cư trú trên địa bàn các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và Lâm Đồng. Trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng (Ol/04/1989) có 868 người Raglai, chiếm 0,2% dân số toàn tỉnh. Hiện nay (Ol/1O/1997) có l . 135 người, đồng bào cư trú ở hai huyện Đơn Dương và Di Linh.
Ngoài
tên tự gọi chung là Raglai nghĩa là người miền núi, đồng bào
còn có các tên gọi khác như: Rangglai, hoặc Rai... Về mặt ngôn
ngữ tiếng Raglai thuộc ngữ hệ Malayô- Pôlinêxia, rất gần gũi
với các dân tộc Chăm, "Đ", Giarai
và Chu ru... Người Raglai sống chủ yếu
dựa vào phương pháp phát rừng làm rẫy. Có hai loại đất rẫy: - Kra là rẫy trên đất phù
sa dọc theo các sông, suối bị ngập nước vào tháng 9, tháng
lO. Trên loại rẫy này, người ta thường trồng bắp (ngô) hoặc
bầu, bí để thu hoạch trước khi rẫy bị ngập nước. - Apố, là loại rẫy trên đất cao hoặc chân núi không bị ngập nước vào mùa mưa. Đây là loại đất canh tác chính của người Raglai. Trên loại đất này, đồng bào thường trồng lúa, ngô và các loại cây có củ. Nông cụ, quy trình và kỹ
thuật canh tác rẫy, tương tự như các dân tộc Mạ, Cơ Ho.
Qua quá trình canh tác nương
rẫy, đồng bào Raglai đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm xem
xét thời tiết để phục vụ cho việc gieo trồng trên đất rẫy.
Khi cây cối trên rừng xanh lá, mây trên trời nhiều hơn, thời
tiết oi bức, gió đổi chiều, cây timun có trái chín hoặc cây
pô- ô đơm hoa là trời sắp đổ mưa và người Raglai đết, dọn
rẫy, gieo hạt giống khi mùa mưa bắt đầu...
Khi đất rẫy đã bạc màu
(qua ba, bốn năm trồng lúa bắp), đồng bào chuyển sang trồng sắn.
Sau một số mùa trồng sắn, đất đã quá cằn cỗi, người ta bỏ
hóa đất rẫy để cho rừng được tái sinh, độ phì nhiêu của
đất được phục hồi, sau đó mới canh tác lại. Trong thời gian
đất rẫy hưu canh, nhưng vẫn thuộc quyền sử dụng của người có
công khai phá lần đầu... Hiện nay, trong phong trào
định canh định cư, người Raglai bắt đầu khai thác ruộng trồng
lúa nước (hama). Người Raglai sinh sống thành
từng làng (Palây). Làng vừa là đơn vị cư trú, vừa là đơn
vị tổ chức xã hội truyền thống của đồng
bào. Người có công đầu trong việc khai khẩn đất hoang lập làng
được giữ chức vụ chủ làng (pôpalây). ở người Raglai cũng
đã có hiện tượng liên minh giữa các làng cư trú kế cận
nhau để tạo thành một laga với một người đứng đầu gọi là
chủ laga hoặc chủ núi (pô laga). Cũng như chủ làng, chủ laga
đều do những người có công khai phá đất đai, lập làng nắm
giữ... Họ chỉ có quyền duy nhất về mặt tín ngưỡng trong các
cộng đồng. Đó là người có quyền đại diện cho cộng đồng làng
để tổ chức lễ cúng các thần linh, trời đất, khi bị hạn hán,
mất mùa hoặc khi dân làng bị dịch, bệnh. Ngoài ra, họ không có
một đặc quyền, đặc lợi nào khác về kinh tế.
Tầng lớp thầy cúng gọi là
Pô dâu, đã hình thành trong xã hội truyền thống của người
Raglai. Pô dâu, có thể là nam hoặc nữ. Họ là những người chữa
bệnh cho dân làng bằng ma- thuật, kết hợp với một vài kinh
nghiệm y học dân gian và các loại dược thảo có sẵn tại địa
phương? Cũng như người Chu ru, người
Raglai tính theo dòng họ nữ và người con gái
có quyền thừa kế tài sản của bố mẹ mình, theo luật tục cổ
truyền. Người Raglai có các dòng
họ như Chăm Maléc, Pi măng (cây cau), Ka tơr (bobo), Pa tâu,
Asah, Kaya, Tu inb, Pơ- Pyer... Mỗi dòng họ hay mỗi chi của dòng
họ có một sự tích, một truyền thuyết riêng về nguồn gốc dòng
họ của mình...
Trong xã hội truyền thống,
người Raglai theo tín ngưỡng đa thần: thần núi (Yang chớ), thần
rừng (Yang gla glai), thần lúa (Yang Paday) v.v... Bên cạnh tín ngưỡng cổ
truyền, từ năm 1940 đến nay, các tôn giáo như Thiên chúa và
Tin Lành đã xâm nhập vào vùng người Raglai và ngày càng phát
triển mạnh mẽ, nhất là những năm gần đây.
|
Trang trước || MỤC LỤC|| Trang sau |