Trang chủ Trang trước Mục lục Trang sau    
   

Đà Lạt là một thành phố có vị trí chiến lược quan trọng ở Nam Tây Nguyên, trung tâm chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật của tỉnh Lâm Đồng. Đây không những là một trong những trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng lý tưởng mà còn là nơi có phong trào cách mạng sôi nổi, liên tục từ năm 1930 đến năm 1975, góp phần cùng cả nước viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc ta: Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 thành công, thành lập chính quyền dân chủ nhân dân; tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.  

1- PHONG TRÀO CÁCH MẠNG THỜI KỲ 1930-1945  

Sau khi chọn Đà Lạt làm nơi nghỉ dưỡng của người Pháp ở Đông Dương, trong những thập niên đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã đưa người Kinh từ các nơi khác đến để tiến hành khai phá và xây dựng. Phần lớn người Kinh đến Đà Lạt là những người bị bắt xâu, bắt lính, tù nhân hay vì bị áp bức bóc lột không thể sống nổi ở quê nhà nên phải tha phương cầu thực. Họ phải làm những công việc nặng nhọc như làm đường giao thông, khai hoang lập đồn điền, chỉ có một số là công nhân lành nghề trong ngành xây dựng, giao thông vận tải, viên chức và dịch vụ. Người Kinh tuy ở nhiều địa phương khác đến nhưng đều là những nơi có truyền thống cách mạng, cần cù lao động, bị thực dân phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy họ đã đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, thường xuyên có liên hệ mật thiết với quê nhà, tiếp thu ảnh hưởng cách mạng và nhạy cảm với tình hình chính trị trong nước.  

Từ năm 1925, phong trào cách mạng nước ta đã có bước chuyển biến mới, thức tỉnh tinh thần yêu nước trong các tầng lớp nhân dân Đà Lạt, nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra ở các công trường, đồn điền.  

Để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng địa phương, tháng 4 năm 1930, chi bộ Đảng Cộng sản ở Đà Lạt được thành lập tại gác 2 nhà xe khách sạn Palace, gồm 3 đảng viên do đồng chí Trần Diệm làm bí thư. Từ những cơ sở cốt cán trong quần chúng, chi bộ đã tổ chức các công hội đỏ trong công nhân, thành lập Hội tương tế và Hội ái hữu để từng bước tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng.  

Đầu năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa thực dân Pháp đã có ảnh hưởng đến Đà Lạt. Nhiều hãng thầu của Pháp ngừng hoạt động, công nhân thất nghiệp, số người còn có việc làm cũng chỉ được trả lương rất thấp. Trước tình hình đó, công nhân xây dựng ở hãng Dragages bãi công đòi chủ không được sa thải công nhân và giảm lương của những người còn có việc làm. Chính quyền thực dân Pháp không những không giải quyết những đòi hỏi chính đáng của công nhân mà còn bắt những người lãnh đạo cuộc bãi công và bắt ép công nhân đi làm. Cuộc bãi công tuy thất bại nhưng đánh dấu sự chuyển biến về ý thức, trình độ giác ngộ và có ảnh hưởng đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động Đà Lạt.  

Nhân ngày Quốc tế lao động 1.5, chi bộ Đảng và các tổ chức quần chúng tiến hành nhiều hoạt động kỷ niệm. Tối 30 tháng 4 năm 1930, cờ đỏ búa liềm được treo ở chợ Đà Lạt, Cầu Đất, truyền đơn xuất hiện trên các đường phố, đồn điền và dọc đường từ Đà Lạt đến Cầu Đất. Truyền đơn mang nội dung:  

- Đánh đổ đế quốc phong kiến.  

- Hủy bỏ thuế chợ, thuế thân.  

- Thực hiện ngày làm 8 giờ.

 - Nam nữ bình đẳng.  

- Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm!  

Tuy có chuẩn bị đối phó nhưng chính quyền Pháp ở Đà Lạt vẫn không ngăn chặn được các hoạt động của ta. Trong ngày 1 tháng 5, chúng huy động lực lượng thu cờ, lượm truyền đơn, chặn đường khám xét và truy lùng những người bị tình nghi nhưng không có kết quả.  

Trên tuyến đường xe lửa Tháp Chàm - Đà Lạt, đường hầm xe lửa Cầu Đất là một công trình lớn nhưng chỉ làm bằng thủ công, thiếu phương tiện bảo hộ lao động. Công nhân làm việc nặng nhọc, khí hậu khắc nghiệt lại bị bọn chủ thầu, cai thầu, đốc công bóc lột thậm tệ bằng các hình thức cúp phạt, quỵt lương, trả lương không đúng kỳ. Ngày 4 tháng 5 năm 1930, hầm sập làm nhiều người chết và bị thương nên công nhân toàn công trường bãi công, đòi cai thầu trả 3 tháng lương còn thiếu. Tên cai thầu hoảng sợ chạy trốn, công nhân tịch thu tài sản của nó chia cho những người gặp khó khăn, sau đó chặn xe chủ hãng đòi trả lương thay cho tên cai thầu. Trước tinh thần đoàn kết và đấu tranh quyết liệt của công nhân, tên chủ hãng nhận trả cho công nhân một nửa số lương mà tên cai thầu còn thiếu. Cuộc bãi công đã giành được thắng lợi.  

Mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố ráo riết, nhưng chi bộ Đảng ở Đà Lạt vẫn tích cực hoạt động xây dựng cơ sở cách mạng và phát triển đảng viên. Đến cuối năm 1930, chi bộ kết nạp được 5 đảng viên mới, cấp trên tăng cường 3 đảng viên, nâng tổng số đảng viên lên 11 đồng chí và chia làm 2 chi bộ:  

- Chi bộ Palace có 5 đảng viên, do đồng chí Trần Diệm làm bí thư, hoạt động trong các khách sạn, nhà máy đèn, ngành xe lửa.  

- Chi bộ Cầu Quẹo (đường Phan Đình Phùng hiện nay) có 6 đảng viên, do đồng chí Nguyễn Sĩ Quế làm bí thư, hoạt động trong công nhân xây dựng, thợ may.  

Để duy trì các hoạt động của Đảng và tránh địch khủng bố, tổ chức Đảng ở Đà Lạt xây dựng hai cơ sở bí mật: cơ sở hội họp và in ấn tại nhà ông Kiểm Tỵ ở đường Cầu Quẹo (nay là nhà 221 đường Phan Đình Phùng), cơ sở liên lạc và mở lớp học tại nhà một đảng viên ở cây số 12 (Trạm Bò) trên đường 11. Tổ chức Đảng và số đảng viên ở Đà Lạt tuy còn ít nhưng đều nằm trong các cơ sở kinh tế quan trọng như nhà máy đèn, khách sạn, hãng thầu xây dựng, ngành xe lửa. Trong số 11 đảng viên ở hai chi bộ có 8 đồng chí là công nhân nên việc tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho công nhân có nhiều thuận lợi.  

Đầu năm 1931, hai chi bộ và các tổ chức quần chúng chuẩn bị truyền đơn để kỷ niệm ngày Quốc tế phụ nữ 8-3. Công việc đang được tiến hành thì ngày 6 tháng 3 năm 1931 tên công sứ Pháp chỉ huy một toán lính đến bao vây và khám xét cơ sở của Đảng ở đường Cầu Quẹo, bắt 3 đảng viên và trên 30 người nghi ngờ có hoạt động cách mạng. Một số đảng viên khác tạm lánh vào Sài Gòn nhưng đến ngày 24 tháng 4 năm 1931 cũng bị bắt giải về Đà Lạt. Như vậy, đến cuối tháng 4 năm 1931, các chi bộ Đảng và các tổ chức quần chúng ở Đà Lạt bị tan rã, phong trào công nhân và phong trào cách mạng dần dần lắng xuống. Trong những năm 1932 - 1935 chỉ có một số cuộc đấu tranh lẻ tẻ, tự phát, không tập hợp được đông đảo quần chúng tham gia.  

Sau cuộc khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản, các ngành kinh tế ở Đà Lạt bắt đầu hồi phục và phát triển. Số lượng người Kinh đến Đà Lạt ngày càng đông nên thành phần xã hội có nhiều thay đổi. Giai cấp công nhân và những người lao động ở Đà Lạt tuy có việc làm nhưng đời sống vẫn gặp nhiều khó khăn vì lương thấp, trả không đúng kỳ và giá cả đắt đỏ. Lúc này tổ chức Đảng vẫn chưa được khôi phục nhưng tin tức về phong trào đấu tranh ở trong nước và báo chí công khai của Đảng đã có tác dụng nâng cao nhận thức, ý thức đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Đà Lạt.  

Tại đồn điền chè Cầu Đất, công nhân thường bị bọn chủ cúp phạt và trả lương không đúng kỳ, nhiều người phải vay tiền nặng lãi của bọn cai ký. Ngày 14 tháng 12 năm 1936, hơn 500 công nhân đình công đưa yêu sách đòi chủ phải trả đủ lương và đúng kỳ. Chiều hôm đó, yêu sách được chấp nhận, cuộc đình công thắng lợi nhanh chóng. Ngày 2 tháng 1 năm 1937, trên 1.000 công nhân lại đình công đòi tăng lương. Để bảo vệ quyền lợi cho chủ đồn điền, tên công sứ Đà Lạt chỉ huy lực lượng đến đàn áp, tìm cách chia rẽ và uy hiếp công nhân. Sau 2 ngày đình công, chúng chỉ bắt ép được một số công nhân đi làm, còn phần lớn vẫn tiếp tục đấu tranh, cuộc đình công kéo dài trong 5 ngày.  

Như vậy, chỉ trong vòng 19 ngày, công nhân đồn điền chè Cầu Đất đã có 2 cuộc đình công lớn. Cuộc đình công sau có quy mô lớn hơn, yêu sách cao hơn cuộc đình công trước, chứng tỏ ý thức đấu tranh và tinh thần đoàn kết của công nhân ngày càng được nâng cao.  

Để đẩy mạnh tuyên truyền những tư tưởng tiến bộ của phong trào Mặt trận dân chủ, những công nhân tiên tiến ở Đà Lạt thành lập nhóm Tiến bộ và Hội thanh niên du lịch. Thông qua các hoạt động công khai hợp pháp, nhóm Tiến bộ và Hội thanh niên du lịch từng bước giác ngộ cách mạng cho công nhân, thanh niên, học sinh, quyên góp ủng hộ phong trào đấu tranh của công nhân và phong trào ái hữu ở Đà Lạt.  

Được sự tổ chức và lãnh đạo của nhóm Tiến bộ, ngày 27 tháng 6 năm 1938, hơn 1.000 công nhân hãng S.I.D.E.C làm việc tại công trường xây dựng dinh nghỉ mát của Toàn quyền Đông Dương (nay là dinh 2 ở đường Trần Hưng Đạo) và công nhân ngành xây dựng đình công, kéo đến dinh Quản đạo và đồn cảnh sát đòi giải quyết các yêu sách:

 - Tăng lương 30%.  

- Ngày làm việc 8 giờ.  

- Không được đuổi thợ vô cớ và thả 3 công nhân bị bắt.  

Trước khí thế đấu tranh của công nhân, cảnh sát phải thả 3 công nhân bị bắt. Sau 3 ngày đình công, tên công sứ Đà Lạt và chủ hãng điều đình với đại biểu công nhân, nhận tăng lương 10% và làm việc 9 giờ một ngày, nhưng đại biểu công nhân không chấp nhận, đòi phải thực hiện đầy đủ các yêu sách nên cuộc điều đình thất bại.  

Công nhân hãng S.I.D.E.C tiếp tục nghỉ việc, chủ hãng định lấy công nhân ở nơi khác đến thay thế nhưng không thực hiện được. Sau hơn một tháng đình công, do quỹ cứu tế đã hết nên một số công nhân đi làm lại, một số bỏ đi tìm việc làm ở nơi khác. Tuy cuộc đình công không giành được thắng lợi hoàn toàn, nhưng sau đó công nhân của hãng và toàn ngành xây dựng Đà Lạt đều được tăng lượng từ 10 đến 20% và làm việc 9 giờ một ngày.  

Hưởng ứng cuộc đình công ở hãng S.I.D.E.C và ngành xây dựng Đà Lạt, ngày 3 tháng 9 năm 1938, hơn 1.900 công nhân đồn điền chè, công nhân xe lửa và các xưởng cưa ở Cầu Đất đình công đòi tăng lương. Đây là cuộc đình công có quy mô lớn nhất của giai cấp công nhân Lâm Đồng thời kỳ này.  

Trước sự chuyển biến mạnh mẽ của phòng trào cách mạng địa phương, tháng 12 năm 1938, chi bộ Đảng ở Đà Lạt được khôi phục sau hơn 7 năm bị gián đoạn. Nhiệm vụ trước mắt của chi bộ là tiếp tục duy trì và phát triển các tổ chức quần chúng nửa công khai như nhóm Tiến bộ, Hội thanh niên du lịch, tổ chức các Hội ái hữu trong công nhân, tích cực tuyên truyền giác ngộ cách mạng và phát triển đảng viên.  

Từ khi có chi bộ Đảng trực tiếp lãnh đạo, phong trào cách mạng ở Đà Lạt có bước phát triển mới, công tác tuyên truyền vận động công nhân chuẩn bị thành lập Hội ái hữu được tiến hành khẩn trương, nhưng đến tháng 10 năm 1939 các đồng chí đảng viên và một số đồng chí cốt cán trong các tổ chức quần chúng bị bắt nên chi bộ ngừng hoạt động, phong trào cách mạng tạm lắng.  

Từ năm 1940 đến năm 1944, tổ chức Đảng ở Đà Lạt có 3 lần được khôi phục nhưng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nên các cuộc đấu tranh đều mang tính tự phát, không thu hút được lực lượng quần chúng tham gia.  

Đầu năm 1945, phong trào cách mạng trong nước lên cao, tổ chức Mặt trận Việt Minh phát triển rộng rãi. Tháng 4 năm 1945, tù nhân ở nhà lao Buôn Ma Thuột đấu tranh thắng lợi, Nhật buộc phải thả hết tù chính trị. Tổ chức Đảng trong nhà lao phân công đồng chí Ngô Huy Diễn và đồng chí Nguyễn Thế Tính về Đà Lạt xây dựng cơ sở, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong một thời gian ngắn, ủy ban Mặt trận Việt Minh Đà Lạt, Tỉnh bộ  Việt Minh lâm thời tỉnh Lâm Viên và các đoàn thể cứu quốc lâm thời tỉnh Lâm Viên được thành lập tập hợp đông đảo quần chúng tham gia.  

Sau khi ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra mệnh lệnh tổng khởi nghĩa trong cả nước và một số địa phương khởi nghĩa thắng lợi đã có ảnh hưởng rất lớn đối với các tầng lớp nhân dân Đà Lạt.  

Tại Cầu Đất, tuy chưa có sự chỉ đạo của cấp trên nhưng đồng chí Trịnh Lý đã tập hợp một số công nhân, thanh niên bàn kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 21 tháng 8 năm 1945, nhân dân Cầu Đất, Trạm Hành khởi nghĩa thắng lợi, thành lập chính quyền cách mạng.  

Được sự giúp đỡ của ủy ban khởi nghĩa tỉnh Khánh Hòa, đêm 21 tháng 8 năm 1945, Hội nghị bàn kế hoạch khởi nghĩa được tổ chức tại Đà Lạt. Hội nghị thông qua chủ trương, phương pháp vận động, tổ chức nhân dân tiến hành khởi nghĩa, thành lập ủy ban khởi nghĩa gồm 5 đồng chí và quyết định khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 23 tháng 8 năm 1945.

 Công việc chuẩn bị khởi nghĩa được tiến hành hết sức khẩn trương, từ việc phổ biến kế hoạch, tổ chức đội ngũ đến việc mang cờ, viết khẩu hiệu đều chạy đua với thời gian. Lực lượng quần chúng được tổ chức theo các phường, ấp gồm các đoàn thể công nhân, thanh niên, phụ nữ, phụ lão và các đội tự vệ, mỗi người tự trang bị cho mình một loại vũ khí.  

Theo đúng kế hoạch đã định, sáng sớm ngày 23 tháng 8, hàng ngàn nhân dân mang theo cờ, biểu ngữ kéo về tập trung tại khu chợ Đà Lạt (nay là khu Hòa Bình). Từng đoàn công nhân, thanh niên, phụ nữ, phụ lão tay cầm dao, kiếm, cuốc, nỉa, gậy gộc; các đội tự vệ mặc đồng phục và được trang bị dao găm, mã tấu, lựu đạn. Sau khi tổ chức mít tinh, đoàn biểu tình kéo đến bao vây dinh Tỉnh trưởng Lâm Viên (nay là nhà số 4 đường Thủ Khoa Huân) và hô vang khẩu hiệu “Đả đảo đế quốc chủ nghĩa!”, “Đả đảo chính phủ Trần Trọng Kim!”, “Mặt trận Việt Minh muôn năm!”. Trước sức mạnh của quần chúng, Tỉnh trưởng Ưng An hoảng sợ đem nộp ấn tín, giấy tờ sổ sách cho ủy ban khởi nghĩa. Sau đó đoàn biểu tình kéo đến lấy đồn bảo an, phá cửa nhà lao đón những đồng chí, đồng bào đang bị giam trong xà lim.  

Ngày 24 tháng 8, nhân dân Đà Lạt tiếp tục biểu tình kéo đến dinh Tổng đốc Lâm - Đồng - Bình - Ninh buộc Tổng đốc Trần Văn Lý nộp ấn tín, giấy tờ cho cách mạng. Sau đó ủy ban khởi nghĩa cử các đoàn cán bộ đến tiếp quản các công sở. Tối 24 tháng 8, ủy ban khởi nghĩa và những cán bộ tham gia khởi nghĩa họp đánh giá tình hình, đề ra một số công tác trước mắt và thành lập ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Lâm Viên gồm 7 đồng chí do đồng chí Phan Đức Huy làm Chủ tịch(*). Những ngày sau đó, ủy ban Việt Minh tỉnh, các đoàn thể quần chúng như: công nhân, thanh niên, phụ nữ và chính quyền cách mạng ở cơ sở được thành lập.  

Cùng với nhân dân cả nước, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Đà Lạt thắng lợi là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử quan trọng, nhân dân ta từ người nô lệ trở thành người chủ đất nước, có quyền quyết định tương lai và vận mệnh của mình. Cách mạng tháng 8 bước đầu đã đem lại những quyền lợi thiết thực mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động hằng mơ ước: xóa bỏ áp bức bóc lột, bình đẳng dân tộc, bình đẳng nam nữ, ngày làm 8 giờ...

*

Từ năm 1930 đến năm 1945, phong trào cách mạng ở Đà Lạt đã trải qua một chặng đường đầy khó khăn, gian khổ nhưng vô cùng anh dũng tự hào. Trong vòng 15 năm, nhân dân Đà Lạt tiến hành nhiều cuộc đình công, bãi thị. Tuy có lúc phong trào lắng xuống như những năm 1932-1935 và 1940-1944, nhưng cao trào cách mạng những năm 1930-1931, 1936-1939 và đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945 đã chứng tỏ sức mạnh to lớn của các tầng lớp nhân dân Đà Lạt dưới sự lãnh đạo của Đảng.  

2. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG ĐÀ LẠT TRONG 9 NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP  

CHỐNG THỰC DÂN PHÁP hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với nhiều khó khăn, phức tạp. Chính sách cai trị, bóc lột của thực dân Pháp, phát xít Nhật để lại hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, văn hóa, xã hội. Bọn đế quốc và bè lũ tay sai cấu kết với nhau, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng.  

Tại Đà Lạt, ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời và Mặt trận Việt Minh đã đề ra một số chủ trương và nhiệm vụ trước mắt để nhanh chóng ổn định tình hình; củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng; thi hành các sắc lệnh của chính phủ về bãi bỏ thuế thân, thực hiện ngày làm việc 8 giờ, thanh toán mù chữ; tổ chức phong trào quyên góp giúp đồng bào miền Bắc bị đói, vận động nhân dân tích cực tham gia “quỹ độc lập”, “tuần lễ vàng”, “tuần lễ đồng”...  

Nhân dân Đà Lạt được hưởng những ngày độc lập tự do chưa được bao lâu phải bước vào cuộc chiến đấu mới.  

Dựa vào thế lực quân Anh, thực dân Pháp buộc quân Nhật phải chiếm lại những nơi bị mất và bàn giao lại cho Pháp. Từ cuối tháng 9 năm 1945, quan hệ giữa ta và Nhật bắt đầu căng thẳng.  

Trước những âm mưu, thủ đoạn của Pháp, Nhật, ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Viên (*) chủ trương dùng lực lượng quần chúng đòi quân Nhật trả lại những nơi mà chúng còn chiếm giữ. Sáng ngày 3 tháng 10 năm 1945, nhân dân Đà Lạt tập trung tại khu vực chợ mít tinh hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch ủng hộ Nam Bộ kháng chiến, sau đó tổ chức các đoàn đến bao vây các công sở quân Nhật còn chiếm giữ như viện Pasteur, khách sạn Palace, nhà máy đèn, kho bạc, đồn lính thủy... Trong 2 ngày, cuộc chiến đấu diễn ra không cân sức, nhân dân Đà Lạt tuy chỉ có vũ khí thô sơ, nhưng với tinh thần chiến đấu dũng cảm đã tiêu diệt 20 tên Nhật, bắn bị thương nhiều tên khác. Lực lượng ta có 40 đồng bào và chiến sỹ anh dũng hy sinh và 80 người khác bị thương. Đó là những tấm gương sáng ngời tô thắm thêm truyền thống cách mạng của nhân dân Đà Lạt.  

Cuối tháng 10 năm 1945, thực dân Pháp tiếp tục đánh chiếm các tỉnh Nam Bộ  và chuẩn bị tiến công các tỉnh Nam Trung Bộ. Trước tình hình đó ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Viên quyết định đưa các cơ quan, đoàn thể và phần lớn nhân dân Đà Lạt tản cư về Cầu Đất, xây dựng phòng tuyến Trại Mát từ cây số 6 đến cây số 8 trên đường 11. Tỉnh chỉ để lại một bộ phận thường trực và lực lượng thanh niên, tự vệ làm nhiệm vụ tuần ra canh gác, sẵn sàng chiến đấu.  

Tại phòng tuyến Trại Mát, lực lượng ta có một đại đội vũ trang (tương đương một tiểu đoàn), lực lượng tự vệ, thanh niên, công nhân và các đơn vị vệ quốc đoàn của tỉnh. Phòng tuyến được bố trí thành nhiều tuyến, có hầm hào, công sự chiến đấu và chướng ngại vật nhằm ngăn chặn quân địch từ Đà Lạt xuống, bảo vệ các cơ quan, đoàn thể và nhân dân tản cư ở Cầu Đất.  

Nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, ngày 6 tháng 1 năm 1946, cả nước tham gia tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tại Đà Lạt, tuy hoàn cảnh gặp nhiều khó khăn nhưng cuộc bầu cử vẫn tiến hành khẩn trương và bảo đảm nguyên tắc. Trong vùng địch kiểm soát, ta tổ chức các hòm phiếu bí mật đưa đến từng nhà để cử tri bỏ phiếu. ở khu vực Cầu Đất và những vùng ta làm chủ, cuộc bầu cử được tổ chức chu đáo, có đông cử tri đi bỏ phiếu. Lần đầu tiên nhân dân được quyền lựa chọn đại biểu xứng đáng vào cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Kết quả, đồng chí Ngô Huy Diễn trúng cử đại biểu Quốc hội của tỉnh Lâm Viên.  

Sau khi chiếm xong các tỉnh Nam Bộ, thực dân Pháp tập trung lực lượng đánh chiếm các tỉnh Nam Trung Bộ. Ngày 27 tháng 1 năm 1946, thực dân Pháp đưa một lực lượng lớn từ Sài Gòn lên Đà Lạt. Ngày 28 tháng 1, phối hợp với quân Nhật tại chỗ, chúng tấn công vào phòng tuyến Trại Mát. Tại đây, các đơn vị bộ đội và lực lượng tự vệ đã chiến đấu dũng cảm, gây cho địch nhiều thiệt hại, nhưng do lực lượng quá chênh lệch nên chiều hôm đó lực lượng ta phải rút xuống Cầu Đất và cùng các cơ quan, đồng bào tản cư xuống Ninh Thuận. Từ đây, nhân dân Đà Lạt lại bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

 Từ khi chiếm lại Đà Lạt, thực dân Pháp tổ chức lại bộ máy cai trị, chúng thừa nhận “Đà Lạt là một thành phố hiu quạnh” và kêu gọi nhân dân, công nhân hồi cư, nhất là công nhân nhà máy điện. Mặt khác, chúng khủng bố những người tình nghi hoạt động cách mạng hoặc có hành động phá hoại.  

Để tiếp tục đẩy mạnh phong trào cách mạng ở Đà Lạt, ủy ban kháng chiến tỉnh Lâm Viên(*) chủ trương đưa một số nhân dân, công nhân và cán bộ trở về Đà Lạt xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng địch kiểm soát; tổ chức đường dây liên lạc theo đường hợp pháp để đưa tài liệu, truyền đơn và cán bộ lên hoạt động tại Đà Lạt.  

Từ năm 1946 đến năm 1949, cơ sở cách mạng được xây dựng ở hầu khắp các địa bàn, nhiều cán bộ hoạt động hợp pháp đã tìm cách vào làm ở nhà máy đèn, sở địa dư, khách sạn Palace để tuyền truyền giác ngộ và xây dựng cơ sở trong công nhân. ở khu vực vùng ven, ta xây dựng các mật khu, chiến khu để đưa cán bộ lên hoạt động và chỉ đạo phong trào cách mạng địa phương.  

Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở các tỉnh Cực Nam, tháng 4 năm 1949, Liên khu ủy 5 thành lập Ban cán sự Đảng tỉnh Lâm Viên, và tháng 1 năm 1950, Thị ủy Đà Lạt được thành lập. Đây là sự kiện quan trọng, lần đầu tiên tỉnh Lâm Viên và Đà Lạt có tổ chức Đảng cao nhất ở địa phương trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng.  

Từ cuối năm 1950, phong trào cách mạng Đà Lạt có sự chuyển biến đáng kể, toàn thị xã xây dựng được trên 2.000 cơ sở cách mạng, hàng trăm công nhân, thanh niên, học sinh thoát ly ra chiến khu tham gia kháng chiến. Tại chợ Đà Lạt, chị em thành lập tổ chức phụ nữ “Minh Khai” với nhiệm vụ tuyên truyền vận động chị em ủng hộ kháng chiến, tiếp tế cho chiến khu. Cuộc vận động quyên góp “áo mùa đông chiến sĩ” được đông đảo chị em tham gia. Chỉ trong một thời gian ngắn, chị em đã quyên góp được hàng trăm áo len, quần áo và bí mật chuyển ra chiến khu.  

Đầu năm 1951, Thị ủy Đà Lạt tuyển chọn một số công nhân, thanh niên, học sinh mới thoát ly ra chiến khu dự lớp huấn luyện quân sự, sau đó thành lập đội cảm tử Phan Như Thạch (*), 13 tổ cảm tử và các đội vũ trang tuyên truyền làm nhiệm vụ xây dựng cơ sở cách mạng và đẩy mạnh diệt tề trừ gian. Trong 6 tháng đầu năm 1951, nhiều tên mật thám ác ôn đã bị trừng trị như: Lê  Đình Hiệu, Lê Hành, Hồ Minh, Nguyễn Văn Thơm...  

Đầu tháng 5 năm 1951, đội cảm tử Phan Như Thạch được giao nhiệm vụ đột nhập vào thị xã, diệt ác trừ gian, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị lập thành tích kỷ niệm ngày sinh nhật Bác Hồ. Với vinh dự đó, toàn đội rất phấn khởi tự hào, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Sau khi đưa ra một số mục tiêu quan trọng, đội quyết định đột nhập vào nhà tên Haasz, phó thanh tra mật thám Đông Dương để bắt sống, thu tài liệu và dùng tên này làm con tin buộc địch phải trao trả những chiến sĩ và đồng bào đang bị giam giữ.

 

Sau mấy ngày điều tra nắm tình hình và vạch kế hoạch cụ thể, ngày 11 tháng 5 năm 1951, đội cảm tử cử một tổ gồm 7 đồng chí đột nhập vào nhà tên Haasz tại biệt thự Hoa Hồng (nay là nhà số 17 đường Huỳnh Thúc Kháng). Đến 17 giờ, tên Haasz về nhà, phát hiện có lực lượng ta đang mai phục nên bỏ chạy. Biết không thể bắt sống được, đồng chí Nguyễn Lại bắn 3 phát súng tiểu liên, tên Haasz ngã gục giữa sân. Các chiến sĩ cảm tử đội nhanh chóng thu tài liệu, chiến lợi phẩm và rút về chiến khu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu diệt tên mật thám cáo già của thực dân Pháp.

 

Để trả thù cách mạng và trấn an tinh thần binh lính, lúc 19 giờ cùng ngày, địch đưa 20 tù nhân ở nhà lao Đà Lạt đi bắn tại một khu rừng gần sân bay Cam Ly, 19 người đã hy sinh, chỉ còn chị Nguyễn Thị Lan bị thương nặng còn sống sốt (*).  

Trước hành động trả thù dã man của địch, ngày 12 tháng 5 năm 1951, hàng ngàn nhân dân Đà Lạt xuống đường biểu tình đòi trừng trị những tên gây tội ác, đòi bồi thường thiệt hại cho những gia đình có người bị giết hại và chị Nguyễn Thị Lan. Trước sức mạnh đấu tranh của nhân dân, địch không dám đàn áp, bắt bớ, tìm cách xoa dịu, đưa những tên gây ra vụ thảm sát lên Buôn Ma Thuột. Trong cuộc đấu tranh này, ta đã tranh thủ được sự ủng hộ của bà Từ Cung (mẹ Bảo Đại), chính bà cử người lo chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ tính mạng cho chị Nguyễn Thị Lan.  

Vụ thảm sát 20 tù nhân ở Cam Ly không những gây chấn động lớn ở Đông Dương mà còn cả ở nước Pháp. Chủ tịch Quốc hội Pháp công kích Chính phủ và quân đội Pháp ở Việt Nam không bảo đảm trật tự an ninh. Nhưng những đảng viên Đảng Cộng sản Pháp là nghị sĩ Quốc hội lại đưa vụ này ra chất vấn và tố cáo trước Quốc hội, yêu cầu phải chấm dứt ngay những hành động tội ác đối với các nước thuộc địa, nhất là ở Việt Nam.  

Nhân dịp kỷ niệm ngày sinh nhật Bác Hồ, Thị ủy chủ trương vận động nhân dân bãi thị, ngừng các hoạt động trong ngày 19 tháng 5. Đêm 18 tháng 5, lực lượng cảm tử đột nhập vào thị xã rải truyền đơn, treo cờ, dán áp phích và lúc 4 giờ 30 phút sáng 19 tháng 5 đã cho nổ 3 quả lựu đạn ở những đường phố lớn và gài 3 quả không nổ trước chợ Đà Lạt để cảnh cáo địch. Suốt ngày 19 tháng 5, chợ Đà Lạt không họp, đường phố vắng người, các cửa hiệu đóng cửa. Cuộc bãi thị gây được ấn tượng sâu sắc, thể hiện tình cảm của các tầng lớp nhân dân Đà Lạt đối với Bác Hồ kính yêu.  

Để đối phố với các hoạt động của ta, địch điều một tiểu đoàn Comandos từ Sài Gòn lên tăng cường cho Đà Lạt. Đội cảm tử được giao nhiệm vụ đột nhập vào thị xã để nắm tình hình hoạt động và có phương án tiêu diệt bọn này. Đêm 27 tháng 6 năm 1951, đồng chí Lê Trần Thái, chính trị viên đội cảm tử Phan Như Thạch cùng một tiểu đội đến giấu quân tại nhà xác bệnh viện. Sáng hôm sau, đồng chí Lê Trần Thái đến nhà một cơ sở (nay là nhà số 9 đường Hai Bà Trưng) gặp đồng chí Sinh, cán bộ tình báo. Khoảng 9 giờ sáng, do có người khai báo nên một đại đội Commandos đến bao vây căn nhà để bắt sống hai đồng chí. Quyết không để bị địch bắt, hai đồng chí đóng chặt cửa và rút lên lầu đốt tài liệu, con dấu của đội cảm tử, sau đó mở cửa sổ ném lựu đạn, dùng súng ngắn tiêu diệt bọn địch đang bao vây căn nhà. Sau 30 phút chiến đấu, hai đồng chí đã tiêu diệt 6 tên địch và anh dũng hy sinh bằng 2 viên đạn còn lại của mình. Khi đưa hai thi hài về nhà xác bệnh viện, địch phát hiện tiểu đội cảm tử đang giấu quân tại đây. Tuy ở trong thế bị bao vây, nhưng các chiến sĩ cảm tử đã dũng cảm vượt ra khỏi nhà xác, vừa chiến đấu, vừa rút lui, đồng chí Nguyễn Lại, tiểu đội trưởng anh dũng hy sinh. Cuộc chiến đấu diễn ra không cân sức nhưng các chiến sĩ cảm tử đã tiêu diệt 4 tên địch, thoát khỏi vòng vây và trở về chiến khu.  

Được tin ba đồng chí cảm tử anh dũng hy sinh, hàng ngàn nhân dân Đà Lạt đến nhà xác bệnh viện thăm viếng, tỏ lòng thương tiếc vô hạn. Lúc đầu, địch tìm cách ngăn cản nhưng đồng bào vừa dùng lý lẽ đấu tranh hợp pháp vừa kiên quyết đòi được vào nhà xác nên chúng phải nhượng bộ. Suốt 3 ngày liền, đồng bào mang đến quanh thi hài 3 đồng chí những bó hoa tươi, các loại nước hoa đắt tiền, sau đó quyên góp tiền mua quan tài, vải liệm và tiễn đưa 3 người con yêu quý về nơi an nghỉ cuối cùng. Bọn địch tuy rất căm tức nhưng không dám đàn áp vì sợ nổ ra cuộc biểu tình lớn.  

Trước sự phát triển mạnh mẽ của phòng trào cách mạng Đà Lạt, từ tháng 7 năm 1951, địch tập trung lực lượng đánh phá. Chúng điều quân từ Buôn Ma Thuột, Di Linh, Dran đến phối hợp với lực lượng tại chỗ liên tục khủng bố bên trong và hành quân càn quét đánh vào chiến khu và kho tàng của ta ở vùng ven, gây nhiều khó khăn, tổn thất cho cách mạng. Trước tình hình đó, cuối năm 1951, Ban Cán sự Cực Nam chủ trương chuyển hướng phương châm, phương thức hoạt động mới: “Kiên trì vận động cách mạng, tiềm hành (*)  gây cơ sở”. Các đội vũ trang tuyên truyền, lực lượng cảm tử được tổ chức thành các đội xây dựng cơ sở, đồng thời giảm biên chế trong các cơ quan, đơn vị.  

Sau hơn 2 năm thực hiện chủ trương chuyển hướng phương châm , phương thức hoạt động mới, phong trào cách mạng Đà Lạt đã vượt qua những khó khăn thử thách, gian khổ ác liệt và tiếp tục phát triển. Trên các địa bàn đã móc nối được cơ sở cũ, phát triển thêm cơ sở mới nhưng vẫn bảo đảm bí mật. Những cuộc đấu tranh của nhân dân chống lập hợp tác xã rau, hợp tác xã gạo, đòi giảm thuế chợ đã buộc địch phải nhượng bộ và chấp nhận các yêu sách.  

Cuộc đấu tranh chính trị lớn nhất thời gian này là đám tang bà Nguyễn Thị Xuân (tức bà Xu Nguyên), một cơ sở cách mạng trung kiên ở xã Lạc Nghĩa (Dran). Bà Nguyễn Thị Xuân thường tiếp tế cho đội công tác và có quan hệ với nhiều cơ sở ở Đà Lạt. Do có tên phản bội khai báo, bà bị địch bắt đưa về giam tại nhà lao Đà Lạt và tra tấn rất dã man hòng buộc bà khai báo những cơ sở cách mạng ở Dran, Đà Lạt. Tuy còn đang mang thai, nhưng những đòn tra khảo của kẻ thù không làm bà Nguyễn Thị Xuân run sợ, bà vẫn giữ vững khí tiết đến hơi thở cuối cùng. Biết bà Xuân là một tín đồ đạo Tin lành, ta vận động và tranh thủ mục sư Phạm Đình Liệu, người có uy tín trong đạo Tin lành ở Đà Lạt xin đưa xác bà Xuân về làm lễ và chôn cất. Lúc đầu, địch không cho nhưng ông Phạm Đình Liệu kiên quyết đấu tranh và nói với chúng: “Tôi chưa thấy một chế độ nào dã man như chế độ này. Phần xác các ông đã đánh chết người ta, còn phần hồn là của đạo chúng tôi các ông cũng muốn cướp đi”. Cuối cùng, địch đuối lý phải để ta tổ chức đám tang. Cơ sở bên trong đã vận động hàng ngàn đồng bào tham gia, biến đám tang thành một cuộc biểu tình tố cáo hành động và tội ác dã man của địch. Trong ngày hôm đó, cơ quan Thị ủy và các đội xây dựng cơ sở tổ chức lễ truy điệu bà Nguyễn Thị Xuân, một cơ sở cách mạng, một phụ nữ trung kiên đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng.

*

Trải qua 9 năm kháng chiến gian khổ nhưng vô cùng anh dũng, Đảng bộ và nhân dân Đà Lạt đã góp phần cùng cả nước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.  

Thắng lợi đó là nhờ Đảng ta đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, độc lập, tự chủ và sự chỉ đạo nhạy bén, sáng tạo, linh hoạt. Những chủ trương, đường lối của Đảng đã được Đảng bộ vận dụng vào tình hình thực tế, đưa phong trào cách mạng địa phương không ngừng phát triển.  

Thắng lợi đó còn là sự đóng góp to lớn sức người, sức của của nhân dân Đà Lạt đối với sự nghiệp cách mạng. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ ác liệt bám trụ chiến trường, bám sát dân để xây dựng phong trào. Chính sự thương yêu đùm bọc của nhân dân, tình đồng chí sâu sắc đã tăng thêm sức mạnh và là nguồn động viên cho mỗi cán bộ, chiến sĩ vượt qua gian lao thử thách hoàn thành nhiệm vụ.  

3- PHONG TRàO CáCH MạNG Đà LạT TRONG CUộC KHáNG CHIếN CHốNG Mỹ, CứU NƯớC  

Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, các cơ quan đơn vị và hầu hết cán bộ, đảng viên hoạt động ở Đà Lạt chuyển xuống chiến khu Lê Hồng Phong (Đà Lạt) để thực hiện việc chuyển quân tập kết theo tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ.  

Được sự hậu thuẫn của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng, đi ngược lại nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân ta. Tại Đà Lạt, địch tập trung xây dựng bộ máy ngụy quyền các cấp, thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng” nhằm truy bức quần chúng, khủng bố cơ sở cách mạng, cán bộ, đảng viên.  

Trước tình hình quần chúng đang bị địch kìm kẹp, cán bộ đảng viên bị truy lùng gắt gao, tháng 10 năm 1954, Ban cán sự Cực Nam bố trí một số cán bộ lên Đà Lạt hoạt động hợp pháp, bất hợp pháp để xây dựng cơ sở, lãnh đạo quần chúng đấu tranh.  

*  

Hưởng ứng phong trào bảo vệ hòa bình của nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn, giữa năm 1955, Ban Cán sự Đảng Đà Lạt (*) chủ trương thành lập ủy ban bảo vệ hòa bình ở địa phương, tập hợp những người yêu nước tán thành Hiệp định Giơ-ne-vơ, ủng hộ hòa bình. ủy ban đã in và phát hành các loại tài liệu giải thích, tuyên truyền Hiệp định; tập hợp đại diện các tầng lớp nhân dân kéo lên Thị trưởng Đà Lạt đưa kiến nghị đòi ngụy quyền thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà, tự do dân chủ, tự do đi lại làm ăn.  

Nhằm tiếp thêm sức mạnh cho phong trào, tháng 8 năm 1955, nghiệp đoàn tiểu thương chợ Đà Lạt vận động trên 300 chị em bãi thị, cử đại diện gặp chính quyền yêu cầu thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định, Mỹ không được can thiệp vào miền Nam Việt Nam, đòi giảm thuế chợ và cho nhân dân tự do đi lại buôn bán.  

Giữa lúc phong trào đấu tranh đòi hòa bình đang trên đà phát triển thì bị địch khủng bố, một số đồng chí lãnh đạo ủy ban và cơ sở nòng cốt bị bắt nên đến đầu năm 1956 phong trào ngừng hoạt động. Tuy nhiên, ở hầu hết các địa bàn, cơ sở cách mạng được khôi phục và tiếp tục phát triển, kết nạp đảng viên mới và thành lập thêm 2 chi bộ.  

Sau một thời gian tập trung đánh phá phong trào cách mạng ở các tỉnh đồng bằng, đầu năm 1957, chính quyền Ngô Đình Diệm chuyển hướng hoạt động, tăng cường đánh phá phong trào miền núi. Chúng vừa tiến hành nhiều cuộc hành quân càn quét vào vùng căn cứ của ta, vừa đẩy mạnh đôn quân bắt lính bổ sung cho lực lượng bảo an, dân vệ, thanh niên chiến đấu. Trên địa bàn Đà Lạt có 350 tên bảo an, 150 dân vệ và trên 1.000 thanh niên chiến đấu.

Từ giữa năm 1961, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. ở hầu hết các vùng nông thôn, địch dồn dân vào các khu tập trung, ấp chiến lược hòng cắt đứt sự liên lạc giữa lực lượng cách mạng ở bên ngoài với cơ sở và quần chúng trong vùng địch kiểm soát. Tại Đà Lạt, địch vừa tập trung củng cố bộ máy chính quyền các cấp, đánh phá cơ sở cách mạng, vừa tăng cường kiểm soát các ấp vùng ven và vùng nông thôn như Xuân Thành, Đất Làng, Trường Sơn, Xuân Sơn...  

Trước những âm mưu và thủ đoạn mới của địch, lực lượng vũ trang của tỉnh nhiều lần đột nhập vào các ấp tiêu diệt và làm tan rã bộ máy kèm, lực lượng dân vệ, thanh niên chiến đấu. ở bên trong, tổ chức Đảng và cơ sở cốt cán đã vận động, lãnh đạo tiểu thương chợ Đà Lạt bãi thị suốt 7 ngày liền, cử đại diện gặp Thị trưởng đòi bãi bỏ việc tăng thuế chợ. Nhân dân các ấp vùng ven đấu tranh tẩy chay cuộc bầu cử hội đồng thành phố, yêu cầu chính quyền phải chăm lo hơn nữa đời sống của dân. Nhiều Phật tử tiến bộ xuống đường đấu tranh chống địch khủng bố Phật giáo yêu nước ở Sài Gòn, Huế, đòi hủy bỏ các luật lệ ngăn cấm, khủng bố, đàn áp Phật tử lương thiện.  

Từ năm 1966, với phương châm đánh địch bằng 2 chân 3 mũi, phong trào cách mạng Đà Lạt đã có sự chuyển biến đáng kể. Các đơn vị bộ đội địa phương, đội công tác liên tục đột nhập vào các ấp dọc đường 11, tiêu diệt nhiều tên ác ôn, hỗ trợ nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ ở nhiều mức độ khác nhau. Các đơn vị biệt động đặc công đánh mìn khách sạn Lê-rơ-vin (Les Revines), tập kích sân bay Cam Ly, gây cho địch nhiều thiệt hại. Đơn vị 810 và 870 chặn đánh đoàn xe chở cố vấn Mỹ tại dốc Đu khi từ đài ra đa Cầu Đất về Đà Lạt.  

Phối hợp với phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, từ cuối tháng 3 năm 1966, nhân dân Đà Lạt, trong đó học sinh, sinh viên là lực lượng xung kích, đã tiến hành cuộc đấu tranh với quy mô lớn. Tối 26 tháng 3 năm 1966, tại chùa Linh Sơn, đại diện công nhân, tiểu thương, học sinh, sinh viên thành lập “lực lượng nhân dân, sinh viên, học sinh tranh thủ dân chủ”, bầu Ban chấp hành và quyết định phát động cuộc đấu tranh vào ngày 28 tháng 3.  

Theo kế hoạch đã định, sáng 28 tháng 3, sau khi lễ chào cờ ở trường Trần Hưng Đạo kết thúc, cơ sở cốt cán trong học sinh phát động cuộc đấu tranh, cùng lúc đó trong sân trường xuất hiện nhiều truyền đơn, biểu ngữ, học sinh bãi khóa. Khi học sinh trường Trần Hưng Đạo xuống đường biểu tình, đi qua khu vực viện Đại học, trường Bùi Thị Xuân, Bồ Đề (nay là trường bán công Nguyễn Du) đã có thêm hàng ngàn sinh viên, học sinh tham gia.  Tại khu Hòa Bình, một cuộc biểu tình có trên 6.000 người tham gia gồm học sinh, sinh viên, tiểu thương, công nhân và nhân dân lao động. Lãnh đạo Ban chấp hành “lực lượng nhân dân, sinh viên, học sinh tranh thủ dân chủ” tuyên bố mục tiêu đấu tranh và kêu gọi nhân dân tích cực hưởng ứng. Hàng trăm biểu ngữ, khẩu hiệu được treo ở khu Hòa Bình và chợ Đà Lạt với nội dung:  

- Mỹ phải tôn trọng chủ quyền Việt Nam, không được can thiệp vào nội bộ Việt Nam.  

- Phải có chính quyền dân cử.  

- Chính quyền địa phương phải giải tán người Mỹ tại khách sạn Modern.  

- Chúng tôi đòi giảm giá sinh hoạt.

 - Sinh viên, học sinh đòi tự do, dân chủ.  

Từ ngày 29 tháng 3 đến ngày 7 tháng 5 năm 1966, nhân dân Đà Lạt, sinh viên, học sinh tiến hành nhiều cuộc mít tinh, biểu tình đòi dân sinh, dân chủ, đòi Mỹ rút về nước và không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Lực lượng đấu tranh đã chiếm đài phát thanh từ ngày 30 tháng 3 đến sáng ngày 4 tháng 4, tuyệt thực 24 giờ và tổ chức đêm không ngủ tại trung tâm Hòa Bình, bắt tên đại úy chỉ huy lực lượng cảnh sát, chiếm hợp tác xã rau làm trụ sở. Trong cuộc đấu tranh này đã có 5 thanh niên anh dũng hy sinh, 37 người bị thương và hàng chục người bị bắt. Nội dung và khẩu hiệu đấu tranh phù hợp với nguyện vọng quần chúng nên thu hút được hàng chục ngàn lượt người tham gia, đồng thời làm cho nội bộ địch mâu thuẫn, chia rẽ lẫn nhau. Trong quá trình đấu tranh đã phát triển thêm 140 cơ sở, 10 du kích mật, hình thành các lõm chính trị ở Nam Thiên, Đa Thiện, Xuân An, An Hòa, đường Hai Bà Trưng, Trương Công Định, Thung lũng Kim Khuê, Thiên Thành... ở các lõm chính trị, phần lớn quần chúng đều hướng về cách mạng, có tổ chức Đảng trực tiếp lãnh đạo, lực lượng thanh niên làm nòng cốt, bộ máy ngụy quyền cơ sở chỉ tồn tại trên hình thức.  

Sau hai cuộc phản công chiến lược bị thất bại, chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ đứng trước nguy cơ phá sản. Trước tình hình đó, tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp và quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nhằm giáng một đòn sấm sét vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.  

Nằm ở vị trí chiến lược quan trọng ở Nam Tây Nguyên nên trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân, Khu ủy Khu 6 chọn Đà Lạt làm trọng điểm 2 (thị xã Phan Thiết là trọng điểm 1), đồng thời tăng cường hai tiểu đoàn 145, 186 cùng lực lượng vũ trang tỉnh Tuyên Đức phối hợp tấn công địch, hỗ trợ nhân dân nổi dậy giành chính quyền làm chủ.  

Theo kế hoạch chung của toàn miền, đêm 30 tháng 1 năm 1968 (tức đêm giao thừa Tết Mậu Thân), các đơn vị được lệnh tấn công nhưng do công tác chuẩn bị và nắm tình hình chưa chu đáo nên cả 3 hướng ta đều không vào được trong thị xã, phải rút ra ngoài bàn đạp để củng cố lực lượng. Đêm 31 tháng 1, cả 3 hướng đều đồng loạt tấn công địch.

 Ở hướng Tây Bắc, các đơn vị đánh chiếm viện Pasteur, 9 ty và một phần tiểu khu. Ngày hôm sau địch phản kích quyết liệt nên các đơn vị phải rút ra các ấp Xanh Giăng, Du Sinh, Nam Thiên, An Lạc, trụ lại đánh địch phản kích và pháo kích sân bay Cam Ly.  

Trên hướng Tây Bắc, các đơn vị tiến công vào nội thị, đánh các mục tiêu quan trọng như Tỉnh đoàn bảo an, Lữ quán thanh niên, dinh Tỉnh trưởng, Ty công an nhưng không dứt điểm. Trước sự phản kích ác liệt của địch, các đơn vị phải rút ra trụ lại đánh địch suốt 11 ngày đêm, hỗ trợ nhân dân các ấp Đa Phú, Đa Cát nổi dậy giành chính quyền làm chủ, thành lập chính quyền cách mạng (*).  

hướng Đông Nam, các đơn vị đánh địch ở Trại Hầm, ga xe lửa, Nha địa dư và làm chủ khu vực trường Yersin, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch sau đó rút ra vùng ven để củng cố lực lượng.  

Phối hợp với các mũi tấn công quân sự, sau khi khu vực từ Đa Cát đến Đa Phú được giải phóng, trên 1.000 nhân dân kéo về nội thị để cùng nhân dân khu trung tâm nổi dậy giành chính quyền làm chủ. Khi đoàn người đến gần ngã ba Chùa (ngã ba đường Nguyễn Văn Trỗi - Phan Đình Phùng hiện nay), bị địch phát hiện cho máy bay bắn chặn ác liệt nên đoàn người phải quay trở lại, kế hoạch nổi dậy làm chủ khu trung tâm không thực hiện được.  

Trong suốt 11 ngày đêm bám trụ tại khu vực Đa Cát, các đơn vị đã đánh lui nhiều đợt phản kích của địch có xe tăng, pháo binh và máy bay yểm trợ, đồng thời tổ chức cho nhân dân sơ tán về hướng Kim Thạch, Tùng Lâm, Dòng Chúa Cứu Thế. ở những vùng mới giải phóng, lực lượng tự vệ, dân quân được thành lập tổ chức các đội dân công phục vụ vận chuyển vũ khí, tiếp tế, đào hầm hào, cứu chữa thương binh...  

Sau khi bị tổn thất khá nặng nề, địch tăng cường đến Đà Lạt một tiểu đoàn cộng hòa và một biệt đoàn cảnh sát để phối hợp với lực lượng tại chỗ tổ chức phòng thủ xung quanh thị xã, ngăn chặn các cuộc tiến công của ta.  

Ngày 17 tháng 2 năm 1968, các đơn vị bước vào đợt 2 của chiến dịch, tiếp tục đánh vào thị xã trên 3 hướng. Trong 4 ngày chiến đấu ác liệt, ta không chiếm lĩnh được các mục tiêu đã định nên đến ngày 21 tháng 2 ta chỉ để lại 1/3 lực lượng, còn phần lớn rút ra hoạt động ở vùng nông thôn.  

Qua 2 đợt hoạt động cao điểm, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 2.700 tên địch, bắn rơi và phá hủy 14 máy bay, phá hủy gần 100 xe quân sự, bức rút 18 đồn bót, hỗ trợ quần chúng ở một số địa bàn nổi dậy giành quyền làm chủ. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Đà Lạt đã thể hiện sức mạnh tổng hợp giữa tấn công quân sự và nổi dậy của quần chúng, tạo ra bước ngoặt mới của phong trào cách mạng địa phương.  

Từ đầu năm 1969, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa” chiến tranh. Đây là một chiến lược tàn bạo, xảo quyệt và phản động về quân sự, chính trị và kinh tế. Bản chất của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” là tìm cách rút dần quân Mỹ về nước mà vẫn duy trì được chính quyền tay sai, duy trì chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam nước ta.  

Tại Đà Lạt, địch tập trung củng cố bộ máy kèm ở cơ sở, đưa lực lượng bảo an, các đoàn bình định xuống các ấp, phát triển điệp ngầm để theo dõi hoạt động của ta và đánh phá cơ sở cách mạng bên trong. Trong chương trình bình định có trọng điểm, địch tập trung vào những nơi có phong trào cách mạng phát triển như Xuân Trường, Xuân Thọ. ở các vùng bàn đạp, chúng tăng cường các cuộc hành quân càn quét, dùng pháo tầm xa bắn vào những khu vực nghi ta đóng quân, phá hoại kho tàng và các cơ sở sản xuất.  

Thực hiện chủ trương vũ trang hóa cơ sở chính trị, đặc công hóa lực lượng bộ binh, từ năm 1969, lực lượng vũ trang tỉnh Tuyên Đức và các đơn vị biệt động, du kích mật, tự vệ mật Đà Lạt đã đánh những trận táo bạo, bất ngờ, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Tiêu biểu là trận đánh vào Trung tâm chính trị (3 tháng 3 năm 1969), sân bay Cam Ly (20 tháng 3 năm 1969), diệt tên phó ty cảnh sát kiểm trưởng phòng cảnh sát đặc biệt (22 tháng 4 năm 1969), trường Cảnh sát dã chiến và Cảnh sát cơ bản (7 tháng 9 năm 1969), Trung tâm vô tuyến viễn thông...  

Trong đợt hoạt động xuân hè năm 1970 (lấy tên là đợt TK), Tỉnh ủy Tuyên Đức chọn Đà Lạt làm trọng điểm. Chiến dịch TK tấn công vào Đà Lạt được triển khai trên 3 hướng:  

- Ở hướng chủ yếu đánh vào Trường võ bị, Trung tâm vô tuyến viễn thông, Lữ quán thanh niên, Dinh thị trưởng và Tỉnh đoàn bảo an.  

- Hướng thứ yếu 1 từ phía Nam đánh vào Dinh II, trại Cao Thắng, trận địa pháo Tân Lạc.  

- Hướng thứ yếu 2 từ phía Tây Bắc tiến vào chiếm lĩnh Lãnh địa Đức Bà, Đa Cát, đồi Đất Đỏ.  

Đúng 18 giờ ngày 28 tháng 5 năm 1970, cả 3 hướng đồng loạt nổ súng đánh chiếm các mục tiêu ở hướng chủ yếu, các đơn vị chia làm 3 mũi tiến công: Mũi 1 đánh vào Trường võ bị nhưng không dứt điểm, sáng ngày 29 tháng 5 phải rút ra ngoài. Mũi 2 bám trụ ở ấp Đa Thiện, dùng hỏa lực bắn yểm trợ cho mũi 3 thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu bên trong và chiếm giữ khu vực Giáo hoàng chủng viện, đánh địch phản kích suốt 2 ngày đêm, tối 30 tháng 5, mới rút ra ấp Đa Thiện cùng với mũi 2 tiếp tục đánh địch. Sáng 31 tháng 5, lực lượng ta mới rút ra khỏi thị xã.  

hướng thứ yếu 1, các đơn vị đánh vào Dinh II, trại Cao Thắng nhưng không dứt điểm, phải rút ra ngoài dùng hỏa lực bắn vào trận địa pháo Tân Lạc.  

hướng thứ yếu 2, mũi 1 đánh vào khu vực đồi đất đỏ bị địch ném bom, phản kích ác liệt nên phải rút ra. Mũi 2 trụ lại Lãnh địa Đức Bà, đánh lui 8 đợt phản kích của địch, đến tối 29 tháng 5 mới rút ra ngoài.  

Phối hợp với các hướng tiến công, du kích mật và tự vệ mật đánh mìn một số nơi trong thị xã, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Cơ sở cách mạng tại chỗ vận động nhân dân ở một số ấp nổi dậy phối hợp, vừa cùng bộ đội truy kích địch, diệt ác ôn, giải trang phòng vệ dân sự, tiếp tế lương thực thực phẩm cho bộ đội, vừa dựng chướng ngại vật trên đường phố, phá trụ sở ngụy quyền, kêu gọi dân vệ, phòng vệ dân sự bỏ súng.  

Trong chiến dịch TK, các đơn vị tiến công 23 mục tiêu, loại khỏi vòng chiến đấu gần 1.000 tên địch, phá hủy 17 xe quân sự, 7 khẩu pháo, làm suy yếu bộ máy kèm ở cơ sở. Chiến dịch TK không những có ý nghĩa lớn đối với phong trào cách mạng địa phương mà còn có ảnh hưởng đến toàn miền. Dư luận thế giới ca ngợi thắng lợi có ý nghĩa to lớn của chiến dịch này. Báo “Thế giới” của Pháp cho rằng : “Diễn biến và kết quả cuộc tiến công Đà Lạt là một thí dụ nổi bật nhất từ trước đến nay của sự phối hợp hành động giữa những bộ phận tiến công từ bên ngoài và những bộ phận đã xâm nhập vào bên trong thành phố”.  

Cùng với hoạt động vũ trang, phong trào đấu tranh chính trị ở Đà Lạt tiếp tục phát triển nhằm đòi dân sinh dân chủ, chống khủng bố, đàn áp, chống bắt lính. Tháng 4 năm 1970, sinh viên viện Đại học tổ chức nhiều cuộc hội thảo, bãi khóa để phản đối chính quyền Sài Gòn đàn áp học sinh, sinh viên, đòi quyền tự trị đại học. Tháng 7 năm 1970, sinh viên lại tổ chức đấu tranh chống chủ trương “quân sự hóa học đường” của Mỹ - Thiệu, lực lượng đấu tranh đã kéo đến phòng huấn luyện quân sự học đường đòi phải gỡ bỏ bảng hiệu treo trước phòng, đốt toàn bộ hồ sơ và một hình nộm mang quân phục “quân sự học đường”.  

Tiêu biểu cho phong trào đấu tranh chính trị thời kỳ này là cuộc đấu tranh của nhân dân Đà Lạt từ ngày 28 tháng 9 đến ngày 3 tháng 10 năm 1971 chống cuộc bầu cử độc diễn của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.  

Trước khi phát động cuộc đấu tranh, Thị ủy Đà Lạt chỉ đạo cơ sở cốt cán hoạt động trong các tổ chức công khai hợp pháp như: Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình, phong trào phụ nữ đòi quyền sống, Mặt trận bảo vệ văn hóa dân tộc, Đoàn sinh viên Phật tử và Tổng đoàn học sinh Đà Lạt để thống nhất nội dung và chương trình đấu tranh. Đêm 27 tháng 9, tại chùa Linh Sơn, sinh viên, học sinh tổ chức cuộc hội thảo với chủ đề “Sinh viên, học sinh trước hiện tình của đất nước” nhằm vạch trần bản chất độc tài của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đòi dân sinh dân chủ, đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh.  

Sáng ngày 28 tháng 9, Ban lãnh đạo các tổ chức công khai hợp pháp tổ chức cuộc hội thảo “nhận định về cuộc bầu cử độc diễn ngày 3.10”. Tham dự hội thảo còn có đại diện Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình Sài Gòn; phong trào sinh viên, học sinh Sài Gòn; Giáo hội Phật giáo và một số nhà báo. Những người dự hội thảo phản đối trò hề bầu cử bịp bợm của Mỹ - Thiệu, đốt thẻ cử tri, các bích chương cổ động cuộc bầu cử, thành lập “ủy ban nhân dân Đà Lạt - Tuyên Đức chống bầu cử bịp bợm ngày 3.10” và ra bản tuyên bố chung đòi hủy bỏ cuộc bầu cử, đòi Mỹ rút về nước, trả lại quyền tự quyết cho đồng bào miền Nam.  

Liên tục từ tối 28 tháng 9 đến ngày 2 tháng 10, các tầng lớp nhân dân Đà Lạt và sinh viên, học sinh tổ chức nhiều cuộc mít tinh, biểu tình. Các tổ xung kích và sinh viên, học sinh tổ chức đêm không ngủ, hát vang những bài ca yêu nước do học sinh, sinh viên sáng tác; làm nhiệm vụ rải truyền đơn, căng biểu ngữ, phân phát bản tuyên bố chung; tiến hành mỗi ngày 3 buổi phát thanh để phản đối cuộc bầu cử, thông báo tình hình đấu tranh, kêu gọi nhân dân trong ngày bầu cử không đi bỏ phiếu.  

Để đối phó với cuộc biểu tình lớn có thể nổ ra, trong ngày 3 tháng 10, địch huy động toàn bộ lực lượng bao vây chùa Linh Sơn, chặn các con đường vào trung tâm thị xã, làm cho tình hình Đà Lạt hết sức căng thẳng. Trong ngày hôm đó toàn Đà Lạt bãi thị, bãi khóa để phản đối bầu cử, phần lớn nhân dân không đi bỏ phiếu. Những người bị bắt ép đi bầu cử đã tìm cách làm cho phiếu không hợp lệ. Trong 47 phường, ấp của thị xã chỉ có 2 tên trưởng phường đi vận động, thúc ép nhân dân đi bỏ phiếu, số còn lại nằm im hoặc tỏ thái độ đồng tình với quần chúng chống cuộc bầu cử. Trước tình hình đó, địch phải huy động ngụy quân, ngụy quyền, cảnh sát, công chức đi bỏ phiếu nhiều lần để đủ số phiếu quy định.  

Cuộc đấu tranh một lần nữa khẳng định truyền thống cách mạng và sức mạnh đoàn kết của các tầng lớp nhân dân Đà Lạt. Nội dung cuộc đấu tranh đã vạch trần bản chất gian lận, bịp bợm của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu trong cuộc bầu cử ngày 3 tháng 10, nên đã tập hợp được nhiều tổ chức công khai hợp pháp tham gia, trong đó nòng cốt là lực lượng học sinh, sinh viên.  

Trong những năm 1971-1972, mặc dù địch tăng cường thêm lực lượng, đẩy mạnh các hoạt động quân sự, chính trị nhưng phong trào cách mạng Đà Lạt vẫn được giữ vững, làm thất bại âm mưu và kế hoạch bình định của địch.  

Thắng lợi của quân và dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc đã buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973. Đây là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu sự thay đổi lớn về so sánh lực lượng có lợi cho ta, tạo ra khả năng hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam.  

Tại Đà Lạt, cơ sở bên trong hướng dẫn sinh viên, học sinh tổ chức nhiều cuộc hội thảo, hoạt động văn nghệ và phát hành một số tập san công khai, nửa công khai với chủ đề “Quê hương với hòa bình”, “Chính sách hòa hợp dân tộc”. Những tập san của sinh viên, Phật tử, phong trào phụ nữ đòi quyền sống đều tái bản các văn kiện của Hiệp định và phát hành rộng rãi trong nhân dân.  

Đối phó với những âm mưu, thủ đoạn của địch phá hoại Hiệp định Pa-ri, trong 2 năm 1973-1974 ta vừa đẩy mạnh hoạt động vũ trang để ngăn chặn và làm thất bại kế hoạch bình định, lấn chiếm của địch, vừa vận động nhân dân tiến hành hàng chục cuộc đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Pa-ri, đòi dân sinh dân chủ. Tuy nhiên, do sự đánh phá, khủng bố ác liệt của địch, nhiều đảng viên, cơ sở bị bắt nên thực lực cách mạng ở Đà Lạt giảm nhiều so với những năm trước.  

Đầu năm 1975, thắng lợi vang dội, dồn dập trên các chiến trường đã tạo ra bước ngoặt mới của cách mạng miền Nam. Trước thời cơ ngàn năm có một và được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Tuyên Đức, Thị ủy Đà Lạt giao nhiệm vụ cho các chi bộ bên trong và cơ sở cốt cánh trong lực lượng sinh viên, học sinh in truyền đơn kêu gọi nhân dân nổi dậy giải phóng quê hương, kêu gọi sĩ quan binh lính địch làm binh biến. Giữa tháng 3 năm 1975, Thị ủy tổ chức cho một số cán bộ, đảng viên, cơ sở nội thị ra căn cứ để học tập tình hình và nhiệm vụ mới, phổ biến kế hoạch tự giải phóng khi có thời cơ, chiếm lĩnh và bảo vệ các cơ sở quan trọng.  

Sau khi ta giải phóng Tây Nguyên và một số tỉnh duyên hải miền Trung, quân địch ở Đà Lạt hoang mang cực độ và trong đêm 31 tháng 3 năm 1975 chúng rút chạy xuống Phan Rang. Một số đảng viên và cơ sở bên trong nhanh chóng thành lập Ban tự quản, tổ chức lực lượng tự vệ để tiếp quản các vị trí quan trọng như Trung tâm nguyên tử lực, Nhà máy điện, Nhà máy nước, Bưu điện,... đồng thời trấn áp những phần tử phá hoại, gây rối an ninh trật tự. Ngày 1 và 2 tháng 4 năm 1975, nhân dân ở các ấp vùng ven đã hoàn toàn làm chủ tình hình. Sáng ngày 3 tháng 4 năm 1975, cờ cách mạng tung bay trên Tòa hành chính tỉnh Tuyên Đức và Tòa thị chính Đà Lạt, đánh dấu giờ phút lịch sử: tỉnh Tuyên Đức và thị xã Đà Lạt hoàn toàn giải phóng.  

Sáng ngày 14 tháng 4 năm 1975, hơn 10.000 nhân dân Đà Lạt tập trung tại sân vận động đón đoàn cán bộ Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Chủ tịch Huỳnh Tấn Phát dẫn đầu và cùng ủy ban quân quản Đà Lạt tổ chức lễ mừng chiến thắng. Tại buổi lễ này, thay mặt Chính phủ, Chủ tịch Huỳnh Tấn Phát đã tặng thưởng cho cán bộ, quân dân Đà Lạt Huân chương Thành đồng hạng nhất.

Trải qua 45 năm đấu tranh cách mạng (1930-1975), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Đà Lạt đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc. Qua thực tiễn đấu tranh, nhân dân Đà Lạt nhận rõ và tin tưởng vào sức mạnh của chính mình, sự thất bại không thể tránh khỏi của kẻ thù; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của cách mạng. Tổ chức Đảng được rèn luyện về ý chí và năng lực lãnh đạo, kiên cường bám dân, bám chiến trường; xây dựng đội ngũ vững mạnh về số lượng và chất lượng. Đó là những bài học quý báu cần được tiếp tục phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để Đà Lạt xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật của tỉnh Lâm Đồng và là một trong những trung tâm du lịch nổi tiếng của cả nước.

  Trang chủ Trang trước Mục lục Trang sau