Trang chủ Trang trước Mục lục Trang sau    
   

ĐÀ LẠT THỦA BAN ĐẦU (1893-1925)  

Vào những năm cuối thế kỷ XIX, được sự giúp đỡ của nhà bác học Pasteur, Bộ trưởng Bộ giáo dục Pháp và theo yêu cầu của Jean Marie de Lanessan nghiên cứu một dự án đường sá đi từ Sài Gòn tiến vào xứ Thượng, Bác sĩ Alexandre Yersin, người Thụy Sĩ, quốc tịch Pháp, đã thám hiểm và lên được cao nguyên Lang Bian đến vùng Đankia.  

Theo hồi ký của Yersin đăng trên tạp chí Đông Dương (Indochine) năm 1942, ông tìm ra cao nguyên Lang Bian vào ngày 21.6.1893. Yersin kể lại tâm trạng của mình như sau :  

“Cảm tưởng của tôi thật sống động, khi từ rừng thông ra, tôi đặt chân lên bờ cao nguyên rộng lớn trơ trụi và mấp mô, chế ngự bởi ba đỉnh núi Lang Bian. Những gợn sóng của nó làm tôi nhớ lại mặt biển bị dày vò do một đợt sóng vĩ đại như người ta thường thấy ở duyên hải An Nam tiếp theo một trận bão lớn.  

Sự mát lạnh của khí trời đã làm tôi quên đi sự mệt nhọc và tôi nhớ lại sự vui mừng mà tôi đã cảm thấy khi chạy hết tốc lực lên xuống những quả đồi y như một cậu học sinh trẻ trung học”(*)  

Trong cuộc thám hiểm này, Yersin cũng đã kể về cao nguyên Lang Bian và Đà Lạt buổi sơ khai như sau : “Dãy Lang Bian sừng sững ở giữa như một hòn đảo và dường như càng lùi xa khi ta đến gần. Trong những cánh đồng bao la ấy, ta dễ tính sai cự ly. Dưới đáy thung lũng, đất màu đen và có than bùn. Những đàn nai lớn cho phép đến gần khoảng 100m rồi vụt bỏ chạy ra xa, ngoái đầu lại nhìn chúng tôi một cách tò mò”.  

Theo nhật ký của Yersin còn để lại thì ngày 21.6.1893 từ Rioung, Yersin đi đến bờ sông Da N’Tâme (tức Đa Tam), một nhánh của sông Đa Nhim. Ngược dòng Đa Tam, ông đi đến các làng Kréan (gần núi Mnil), Brenne (tức Prenn, gần thác Prenn), sau đó đi về phía Tây Bắc rồi bắt đầu leo núi. Sau gần một giờ leo núi, ông bước ra khỏi rừng thông và phát hiện ra cao nguyên Lang Bian lúc 15g30’. 15g45’ cùng ngày, Yersin vượt qua dòng suối Camly để đi về phía Tây Bắc. Ông đến làng Deũng vào lúc 17g55’, sau đó vượt sông Da Dong (tức Đạ Đờng) và đến 18g15’ thì đến làng Dan Dia (Đan Ya) hay Lang Ia (Lang Ya).  

Yersin đã mô tả cụ thể : “Vùng đất này cư dân thưa thớt, một vài làng của người Lạch (M’Lates) được tập trung ở chân núi. Nơi đó người ta làm ruộng lúa nước rất đẹp… Người Lạch (M’Lates) nói tiếng Chăm cũng thạo như tiếng Mạ. Phụ nữ xoi vành tai thật rộng để nong vào đó những chiếc hình xoắn ốc rất nặng. Người ta tiếp tôi trong căn nhà làng. Mỗi già làng mang tới vò rượu cần của mình. Có đến sáu vò rượu xếp thành hàng dài trước mặt tôi, may thay người ta không yêu cầu tôi phải thưởng thức hết (*).  

Sau đó, Yersin đã trao một phần các ghi chép của ông cho Tạp chí Đông Dương (Revue indochinoise) in ở Hà Nội. Trong số ra tháng 11.1893, tờ báo này có đăng độ 10 trang bài kèm theo một tấm bản đồ lớn vẽ lại tuyến đường đi trong cuộc hành trình của Yersin và các nẻo đường dự tính. Phải đem so sánh bản đồ này với bản đồ của Viện Địa dư quốc tế phát hành vào năm 1945 mới đánh giá được hết công lao của Yersin đối với hệ thống đường bộ đương thời.  

Cuộc thám hiểm cao nguyên Lang Bian của Bác sĩ Yersin rất quan trọng, nó đánh dấu sự hình thành của thành phố Đà Lạt.  

*  

Trong chuyến công du ấn Độ, Toàn quyền Paul Doumer được chứng kiến những trạm nghỉ dưỡng (sanatorium) tổ chức tốt và nhận thấy binh sĩ đóng tại các địa điểm trên độ cao từ 1.000m lên đến hơn 2.000m, có khí hậu giống như ở châu Âu, không bị mắc những bệnh vùng nhiệt đới. Doumer rất mong muốn tìm một hay nhiều nơi tương tự dành cho công chức và binh sĩ  Pháp mệt mỏi, đau yếu vì khí hậu nhiệt đới, tránh được cái nóng nung người ở đồng bằng, tận hưởng những giây phút yên tĩnh trong không khí mát lành để hồi phục sức khỏe. Trong lá thư ngày 23.7.1897 gởi cho các khâm sứ, Doumer nêu ra 4 điều kiện cần thiết cho một nơi nghỉ dưỡng: độ cao tối thiểu 1.200m, nguồn nước dồi dào, đất đai trồng trọt được, khả năng thiết lập đường giao thông dễ dàng. ở miền Bắc 2 địa điểm được giới thiệu nhưng không được chấp nhận là đỉnh núi Ba Vì và cao nguyên giữa sông Hồng và sông Đà. Đỉnh núi Ba Vì quá chật hẹp và độ ẩm quá cao; đường giao thông lên các cao nguyên giữa thung lũng sông Hồng và sông Đà không thuận lợi.  

Vũng Tàu nằm trên bờ biển, cách Sài Gòn 100 cây số theo đường sông, là một bãi biển mát mẻ hơn vùng nội địa nhưng không thể dùng làm nơi nghỉ dưỡng. Vùng đầm lầy Thang Tham, dài hàng chục cây số, ở gần Vũng Tàu là môi trường truyền bệnh sốt rét.  

Nam Kỳ không có những vùng núi cao trên 1.000m. Gần Tây Ninh có một đỉnh núi cao 884m, giữa Châu Đốc và Hà Tiên cũng có vài đỉnh núi khác cao 400 hay 500m .  

Nhận được thư riêng của Doumer, bác sĩ  Alexandre Yersin gợi ý thiết lập nơi nghỉ dưỡng ở Đà Lạt - Đăng Kia(*).  

Từ tháng 10.1897, Doumer cử một phái đoàn quân sự nghiên cứu tìm ra con đường dễ dàng nhất đi từ Nha Trang lên cao nguyên Lang Bian. Phái đoàn đặt dưới sự chỉ huy của đại uý pháo binh Thouars (**), có trung uý thuỷ quân lục chiến Wolf làm phụ tá. Các thành viên khác của phái đoàn gồm có: Cunhac, phụ tá trắc địa viên; Abriac, phụ trách vận chuyển hàng hoá; Missigbrott, sĩ quan tùy tùng, rất tháo vát. Ngoài ra còn có 2 hay 3 dân binh và một người dẫn đường đã đi cùng với Yersin 4 năm về trước. Phái đoàn đi từ Sài Gòn đến Nha Trang và tiến vào thung lũng của sông Nha Trang. Sau 1 tháng khảo sát địa hình trong những điều kiện rất khó khăn và vất vả, đoàn người đến thung lũng sông Đa Nhim, gặp buôn Thượng La Pá (Loupah), gần Đrăn (Dran). Từ đây họ men theo hữu ngạn sông Đa Nhim, đến Phi Nôm (Fimnom), ngược dòng suối Đạ Tam - một nhánh của sông Đa Nhim - vượt thác Prenn và leo lên triền dốc cao phía Nam cao nguyên, đến Đà Lạt tại địa điểm về sau xây cất quán Xa-voa (Auberge savoisienne)(***).  

Sau một thời gian dựng lều sống bên bờ suối Cam Ly, phái đoàn trú ngụ tạm thời ở Đăng Kia. Tại đây có một buôn Thượng lớn trong khi khắp vùng rất nghèo nàn và hoang vắng. ở Măng Linh (Manline) có 2 hay 3 buôn người Lạch. ở Đăng Kia, phái đoàn được thuận lợi là ở trung tâm của toàn vùng, rất tiện cho việc vẽ bản đồ và đổi vật dụng để lấy lương thực.

Thouars chứng minh không thể đi thẳng từ Nha Trang lên Lang Bian và phác thảo một con đường dài khoảng 122km đi từ Phan Rang, ngang qua Xóm Gòn, Đrăn, thung lũng sông Đa Nhim, Klong, Prenn và đến Đà Lạt. Nhận thấy ở độ cao 1.000m, cao nguyên Lang Bian có nhiều nhánh của sông Đồng Nai Thượng, ông gợi ý xây dựng một con đường trực tiếp từ Sài Gòn lên Đà Lạt qua thung lũng sông Đồng Nai, tránh con đường đèo cao 800m lên Đrăn.  

Sau 11 tháng khảo sát, vào tháng 9.1898, phái đoàn trở về lại vùng biển, chỉ để Missigbrott ở lại. Missigbrott đã lập được một vườn rau và chăn nuôi một ít gia súc. Đây cũng là bước đầu của nông trại Đăng Kia.  

*  

Năm 1898, một trạm nông nghiệp và một trạm khí tượng được thiết lập ở Đăng Kia.  

Trong báo cáo ngày 15.12.1901, kỹ sư A. D’André, thanh tra nông nghiệp, trạm trưởng trạm nông nghiệp Lang Bian, cho biết trạm có diện tích 16,6706ha, trồng thử nghiệm nhiều loại cây:  

- Rau: Măng tây, cà tím, xà lách, xà lách son (cresson), bắp cải (các giống đỏ, Cabus, Joanet, Milan, Bruxelles, Quintal), cải bông, su hào, dưa leo, dưa chuột, hành tây, củ cải, cà rốt, củ dền, đậu xanh, đậu Hà Lan, cần, ngò tây, cà chua, actisô…  

- Cây  ăn trái: Pom, lê, đào, cam, chanh, ô-liu, nho, dâu tây…  

- Cây lương thực: Bắp, lúa mì, đại mạch, yến mạch, khoai lang, khoai tây…  

- Cây công nghiệp: Chè.  

Về hoa, A. D’André ghi nhận: “Năm nay, một số lượng tương đối lớn giống hoa được trồng thử. Tôi có thể kể: hoa hồng, cúc, cúc tím (aster), dong riềng, bóng nước (balsamine), sen cạn (capucine), cô-cơ-li-cô, thược dược, mõm sói, bất tử, Forget-me-not (myosotis), mạc-gơ-rít, cẩm chướng, cẩm nhung, á phiện, tư tưởng (pensée), phong lữ (géranium), móng rồng (phlox), hoa tím (violette), cúc lá nhám (Zinnia),…  

Tôi theo dõi các giống hoa cho kết quả tốt nhất và ít tốn công chăm sóc. Nói chung, có thể nói hoa ở Pháp và các vùng ôn đới rất thích hợp trên Lang Bian. Hoa phát triển tối đa và đẹp rực rỡ. Hầu hết các giống hoa đều cho hạt tốt đã được thu hái và giữ làm giống”.  

Trạm cũng trồng thử củ cải dành cho chăn nuôi bò giống Mammouth và Dizette và nuôi 250 gia súc.  

A. D’André nhận xét: “Gia súc tăng trưởng tốt nhờ cỏ trên cao nguyên. Các con vật đưa từ Phan Rang lên rất ốm yếu và mệt mỏi vì đường xa, nhưng hồi phục lại sau 3 tháng. Bảy con bò giống Bretagne lớn nhanh nhưng phải cho ăn thêm cỏ khô, bắp, khoai. Ba con mang từ Pháp sang và 4 con ra đời trên cao nguyên. Đôi khi đàn bò sinh ra những con lai rất đẹp. Hiện có 12 con.

 Ngày 23.12.1900, tôi mang từ Phan Rang lên 10 con cừu, trong đó có một con cừu đực. Số cừu này là giống lai giữa cừu Aỏn Độ và cừu Trung Hoa cho loại len dài nhưng thô. Đàn cừu đã trải qua mùa khô và một phần của mùa mưa, đến ngày 18.7.1901 có tất cả 19 con. Rất tiếc, một con cọp đã lẻn vào chuồng trong đêm tối và vồ chết 14 con. Tuy nhiên, 5 con sống sót còn hình dáng tốt và tôi nghĩ rằng có khả năng nuôi cừu trên quy mô lớn, trừ tai hoạ này, không có con thú nào mắc bệnh cả. Khí hậu và đồng cỏ hình như rất thích hợp.  

Gia súc trong trại cung cấp mỗi tháng khoảng 50 thước khối phân chuồng. Nhờ số lượng phân này, có thể đủ bón cho cây trồng. Từ tháng 5 đến tháng 10, trạm nông nghiệp sản xuất được mỗi tuần 2 lần khoảng 150 kg rau các loại, con số này có thể lên đến 267 kg. Nông sản có thể được coi như là dồi dào” .  

*  

Trạm khí tượng hoạt động tương đối đều đặn mãi đến cuối năm 1908, trừ năm 1905 bị gián đoạn trong một thời gian. Năm 1909, trạm được chuyển từ Đăng Kia về Đà Lạt. Ngừng hoạt động từ cuối năm 1908, trạm tiếp tục công việc từ tháng 6.1909 đến cuối năm 1911. Vào thời kỳ này, đài thiên văn trung ương Phù Liễn có nhiệm vụ tập trung và thông báo những dữ  kiện khí tượng ở Đông Dương báo tin trạm Đà Lạt ngừng hoạt động vì không được trợ cấp.  

Tuy nhiên, những dữ kiện khí tượng thu được trong 14 năm đủ để xác minh điều kiện khí hậu của cao nguyên Lang Bian.  

Về nhiệt độ, đồ thị cho biết nhiệt độ tối cao khá đều, dao động giữa 270 và 300; trừ tháng 7.1902, nhiệt độ lên đến 320.  

Từ 00 vào tháng 1, nhiệt độ tối thấp giảm xuống còn -20 vào tháng 2 và lên cao khá đột ngột đến tháng 8 và 9 (khoảng 90), sau đó nhiệt độ giảm dần xuống còn 20 vào tháng 12.  

Nhiệt độ trung bình hằng tháng thay đổi giữa 16037 (tháng 1) và 19057 (tháng 5). Từ mùa hè sang mùa đông, nhiệt độ chỉ cách nhau khoảng 3020. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 18032, gần giống như nhiệt độ trên bờ biển Địa Trung Hải vào mùa xuân.

 *  

Tháng 3.1899, Doumer gởi điện tín cho bác sĩ  Yersin báo tin ông sẽ đến Phan Rang trong vòng 48 giờ và sẽ cùng Yersin leo núi lên cao nguyên Lang Bian.  

Lúc bấy giờ, con đường cái quan từ Nha Trang đến Phan Rang chỉ là một con đường mòn không có cầu bắc qua sông. Yersin liền cưỡi ngựa đi suốt ngày đêm, chỉ dừng lại ở các trạm đặt cách nhau từ 15 đến 20 km. Ngày 25.3.1899, Yersin đến Nại (gần Phan Rang) đúng lúc tàu Kersaint cặp bến.  

Doumer nghỉ trong giây lát ở toà công sứ Phan Rang, sau đó cùng đoàn tuỳ tùng cưỡi ngựa đi ngay, định chiều hôm ấy đến chân núi, cách Phan Rang khoảng 40km.  

Ngựa của Doumer phi nước đại. Nhờ giống ngựa tốt, Yersin đuổi kịp Doumer và đến Sông Pha (Krongpha) khi trời chập choạng tối.  

Yersin dựng lều, lấy ra hai cái giường xếp và vài lon đồ hộp. Mãi đến khuya, đoàn tuỳ tùng và hành lý mới đến nơi.  

Sáng hôm sau, khi trời vừa sáng, đoàn người bắt đầu leo núi. Con đường đèo thật gập ghềnh và hiểm trở, mọi người phải dắt ngựa đi bộ. Họ đến Đrăn vào lúc 10 giờ. Trên cao nguyên chưa có một người Việt nào sinh sống, Đrăn chỉ là một buôn Thượng mà cư dân đều bị bệnh sốt rét hoành hành. Sau khi tắm sông và vội vàng ăn trưa, họ lại lên đường đi tiếp chặng cuối.  

Trước khi đến Trạm Hành, đoàn người lại dắt ngựa trên đoạn đường đèo, nhưng từ Trạm Hành, đường đi dễ dàng hơn, họ tiếp tục lên yên.  

Khi Doumer, đại úy Langlois và Yersin đến ven cao nguyên thì trời đã tối sẫm. Cả ba người bám sát nhau vì một lý do chính là trong đêm tối, chưa quen với địa hình, họ có thể bị lạc. Vào lúc 10 giờ đêm, họ tới đồn lính ở vị trí Đà Lạt hiện nay. Đó là một mái nhà tranh đơn sơ. Ông Garnier - trưởng đồn - đang ngủ bỗng choàng dậy trước sự có mặt của khách lạ vì chưa được báo tin trước. Vào lúc 1 giờ khuya, đoàn tuỳ tùng đến. Viên công sứ Nha Trang nói giọng hãi hùng: “Tôi nghe tiếng cọp gầm, tôi nhận ra tiếng cọp mà !”.  

Từ sáng sớm, đoàn người khởi hành tiến đến Đăng Kia. Trời lạnh, trên đường đi họ gặp rất nhiều con cà tông (*).  

Đăng Kia, Doumer thanh tra trạm nông nghiệp và khí tượng, trình bày dự án thành lập nơi nghỉ dưỡng tương lai nằm trên đoạn đường xe lửa đi từ Sài Gòn, xuyên qua rừng núi đến Đà Lạt rồi xuống Qui Nhơn. Về sau, dự án không thực hiện được vì khi khảo sát thiết kế, các kỹ sư nhận thấy gặp nhiều khó khăn về kỹ thuật hơn là thiết lập một đường xe lửa ven biển với một nhánh đường sắt phụ từ Phan Rang lên Đà Lạt.  

*  

Ngày 18.4.1899, Doumer giao cho đại úy Guynet nhiệm vụ làm một con đường dài 110 - 120km đi từ Nại - gần bãi biển Ninh Chữ - lên cao nguyên Lang Bian. Đoạn đầu bằng đất đi từ Phan Rang đến chân núi Trường Sơn, đoạn sau là một con đường có độ dốc 8% dành cho lừa tải hàng lên núi.  

Phái đoàn thứ hai này gồm có 20 người Âu, trong đó có bác sĩ étienne Tardif và hai người có mặt trong phái đoàn Thouars : Cunhac, Abriac.  

Ngày 8.6.1899, Tardif tháp tùng Guynet lên Lang Bian. Ông nhận thấy có một khoảng cách rất lớn về nhiệt độ giữa đồng bằng và miền núi.  

Tardif mô tả Đà Lạt và Đăng Kia lúc bấy giờ như sau :  

“Đà Lạt nằm trên cao nguyên Lang Bian trên độ cao ít nhất là 1.500m. Đồn lính nằm trên lưng chừng đồi của một thung lũng rộng, nhìn xuống một vùng đất dốc thoai thoải ven bìa rừng thông. Một dòng suối có lưu lượng rất cao chảy dưới thung lũng. Nước suối trong mát, dễ uống và không có mùi vị.  

Đồn lính Đà Lạt còn rất thô sơ. Trong đồn chỉ có vài người lính và thợ mộc.  

… Đăng Kia ở phía Bắc Đà Lạt nằm trên độ cao 1.400m có 2 người Âu, khoảng 50 người Việt và Thượng. Cách đó không xa là buôn Thượng với 40 - 50 hộ. Ông Canivey và Missigbrott mỗi người ở trong một túp lều tranh cách nhau 800m. Họ lấy nước từ một con suối chảy vào sông Đồng Nai ở chân đồi”.  

Về cao nguyên Lang Bian, Tardif viết :  

“Cao nguyên Lang Bian là một vùng rộng lớn trải ra xung quanh giao điểm của 1060 Kinh Đông và 120 Vĩ Bắc, có hình dáng một hình e líp mà đường trục lớn Bắc - Nam dài 18km và đường trục nhỏ Đông - Tây dài từ 10 đến 12km.

 Độ cao thay đổi từ 1.300 đến 1.550 và 1.600m.  

Đỉnh núi cao nhất của dãy Lang Bian có độ cao 2.200m án ngữ cao nguyên Lang Bian về hướng Bắc. Về các hướng khác, những chỏm núi dài và bao bọc cao nguyên Lang Bian.  

Khi nhìn thấy cao nguyên Lang Bian, điều đập mạnh vào mắt tôi trước tiên là địa hình. Cả một vùng rộng lớn gồm nhiều ngọn đồi nằm kề bên nhau, nối tiếp nhau, chế ngự lẫn nhau, sườn đồi này dốc thẳng đứng, sườn đồi kia nằm thoai thoải trên mặt đất. Những thung lũng rộng và sâu nhiều hay ít chia cắt núi đồi dợn sóng, len vào giữa là con đường nối liền Đăng Kia với Đà Lạt.  

Cả vùng đồi núi này đều phủ bởi một lớp cỏ ngắn vào mùa khô, cao và dày vào mùa mưa.  

Trong thung lũng mọc nhiều loại thực vật khác nhau, lau sậy và trên vài sườn đồi có những đám thông và tùng.  

Dòng nước chảy theo nhiều lối, có khi là những dòng suối nước chảy xiết, có khi là những ao hồ sâu ẩn mình dưới một lớp thảo mộc rậm rạp.  

Hình dáng mấp mô của cao nguyên thật là lạ lùng ! Tôi leo lên một trong 5 đỉnh núi. Một cảnh quan kỳ diệu hiện ra trước mắt tôi. 150 đồi núi xanh rờn giống như một thúng cam khổng lồ. Trong vùng núi đồi trùng điệp có vài làng mạc : ở phía Nam Đà Lạt; hơi chếch về hướng Tây, Đăng Kia và Ăn- krô- ét (Ankroởt); dưới chân núi, Bờ Nơ (Beneur). Xa xa, về hướng Đông là dãy núi Nha Trang; về phía Nam, hoành sơn của thung lũng sông Đồng Nai; về phía Tây và Tây - Nam, những đỉnh núi cao của Căm -pu-chia và Lào.  

Tôi nhận thấy gió trên cao nguyên thổi vào tháng 6 từ Bắc sang Đông và thổi dữ dội từ Đông sang Tây vào tháng 11, trong mùa lạnh.  

Cuối cùng, không thể nào quên một nét thật mê hồn trên cao nguyên bao la này: Ăn-krô-ét với rừng thông mênh mông và thác nước kỳ lạ cao 15m, nước tuôn xối xả. Rất tiếc, vị trí nơi đây quá hẹp không cho phép xây dựng những công trình quan trọng”.  

Trước thế kỷ XX, Đăng Kia là buôn lớn nhất trên cao nguyên Lang Bian, trong khi Đà Lạt vẫn còn hoang sơ. Nhưng so sánh giữa Đà Lạt và Đăng Kia, Tardif đề nghị chọn Đà Lạt làm nơi nghỉ dưỡng và phân tích :  

Điều kiện vệ sinh : Vị trí thuận lợi nhất để thành lập nơi nghỉ dưỡng là một địa điểm trống trải và dễ đến gần. Đó là trường hợp của Đà Lạt có thể đến một cách tự nhiên, trong khi phải đi quanh co thêm 13km để đến Đăng Kia. Đà Lạt còn có một điểm thuận lợi nữa là đất đai kéo dài liên tục với dốc thấp, trong khi Đăng Kia gồm một dãy đồi núi tách rời nhau với những thung lũng hẹp và lầy lội.  

Về độ cao : Đà Lạt cao hơn Đăng Kia 100m. Có thể nói một cách chính xác rằng Đà Lạt ở trên cao và Đăng Kia nằm trong lòng chảo.

 + Nước : Nếu trong tương lai, nơi nghỉ dưỡng trở thành trung tâm, chỉ cần xây dựng ở Đà Lạt một tháp nước là sẽ phân phối được nước cho mọi nhà; ở Đăng Kia, một công trình như vậy gặp rất nhiều khó khăn.  

+ Không khí : Về điểm này, Đà Lạt càng thuận lợi hơn Đăng Kia. Tôi chưa dám nói trước rằng nhờ độ cao, không khí Đà Lạt trong sạch hơn, nhưng chắc chắc là không khí Đà Lạt khô hơn.  

Nằm gần đỉnh núi Lang Bian, trong mùa mưa, Đăng Kia hứng hầu hết những trận mưa. ở Đăng Kia, sương mù dày đặc hơn, gió và tia nắng mặt trời chỉ đến từ 9 đến 10 giờ sáng.  

Cuối cùng, Đăng Kia không bao giờ có không khí rừng thông. Ngược lại, Đà Lạt nằm kề một rừng thông mênh mông tạo thành một hình bán nguyệt ở Đông - Nam cao nguyên.  

+ Về thảo mộc, quanh Đăng Kia không có cây cối. Đồi núi chỉ phủ toàn một lớp cỏ xanh. Đà Lạt, trái lại, nằm cạnh một rừng thông và tùng, không khí đầy hương thơm nhựa thông trong lành. Tính chất thổ nhưỡng ở Đà Lạt cũng tốt hơn ở Đăng Kia.  

+ Nếu nơi nghỉ dưỡng  đặt ở Đăng Kia, đây sẽ là một thành phố có nhiều đồi núi mấp mô, ít đất bằng, không thuận tiện cho các phương tiện giao thông (xe hơi, xe điện, xe đạp) hoạt động. Về ban ngày, không có bóng cây, do đó không thể dạo chơi; ban đêm lại đầy sương mù.  

Giá thành nước cung cấp đến tận nhà rất cao. Vấn đề giải quyết nước thải bằng những phương pháp cơ học hay hóa học ở Đăng Kia rất tốn kém. Nếu nước thải chảy vào sông Đồng Nai sẽ gặp rất nhiều khó khăn về mùa khô. ở Đà Lạt, với đất rộng, đồi núi thấp, một tháp nước và một hệ thống đường ống dẫn nước có thể cung cấp nước cho mọi gia đình. Nước thải được cho chảy về Prenn. Dưới thung lũng này có một dòng suối đầy nước quanh năm chảy qua một vùng rộng lớn gần như hoang vu trước khi nhập vào sông Đa Nhim.  

+ Vật liệu xây dựng lại ở gần Đà Lạt và rất xa Đăng Kia.  

+ Về phương diện thẩm mỹ, Đà Lạt nằm ở vị trí rất tuyệt diệu, chân trời lui về phía dãy núi Lang Bian. Trái lại, từ lòng chảo Đăng Kia, chân trời bị những ngọn đồi xanh bao quanh, không có rừng, không có núi, chỉ nhìn thấy ánh mặt trời và đồi cỏ xanh”.  

Trong một thời gian, giới hữu trách do dự trong việc chọn một trong những địa điểm sau để thành lập nơi nghỉ dưỡng : Đrăn, Bờ Nơ, Đà Lạt và Đăng Kia. Lúc đầu, người ta chọn Đăng Kia, nhưng sau đó một địa điểm giữa Đà Lạt và Đăng Kia, và cuối cùng là Đà Lạt.

 *  

Ngày 1.11.1899, tỉnh Đồng Nai Thượng được thành lập bao gồm vùng thượng lưu sông Đồng Nai đến biên giới của Nam Kỳ và Lào. Tỉnh lỵ đặt tại Di Linh (Djiring) và 2 trạm hành chánh (postes administratifs) được thành lập ở Tánh Linh (Tân Linh) và trên cao nguyên Lang Bian. Ngoài các nhiệm vụ thường lệ, Outrey - công sứ tỉnh Đồng Nai Thượng - còn có nhiệm vụ đặc biệt giúp Sở công chánh Đông Dương nghiên cứu và xây dựng con đường sắt ở Nam Trung Kỳ.  

Từ năm 1898 đến năm 1900, các phái đoàn Odhéra, Garnier và Bernard nghiên cứu con đường đi từ Sài Gòn lên Đà Lạt (dài khoảng 300km), đề nghị một con đường đi từ Phan Rang lên Đà Lạt qua Klong, vượt sông Đồng Nai, đi ngang qua Di Linh và xuống thung lũng sông La Ngà để tiếp nối với con đường sắt ven biển về hướng Tánh Linh.  

Năm 1901, vài căn nhà gỗ được xây dựng dành cho toàn quyền, bệnh viện, công sứ và cảnh binh. Một viên thị trưởng được chỉ định.  

Khi còn ở Hà Nội, Doumer đã lập một chương trình xây dựng Đà Lạt. Theo chương trình này, Đà Lạt là một thành phố toàn vẹn với các trụ sở hành chánh hoạt động về mùa hè, các trường trung học và doanh trại quân đội. Bản đồ phân lô đã bố trí các công trình kiến trúc từ dinh toàn quyền đến nhà ở của y tá, văn phòng công chánh, thuế vụ, thú y, thanh tra tài chánh, nông nghiệp… Sở cảnh sát ở bên cạnh giải trí trường. Tòa thị chính rộng 306,88m2 với nhiều phòng. Nước được dự kiến cung cấp cho 10.000 dân, nguồn nước có thể thỏa mãn trong tương lai cho 40.000 dân. Nước được lọc bằng phương pháp ozon hóa và có cả tia cực tím. Năng lượng thuỷ điện của các thác nước ở Ăn-krô-ét với nhà máy 2.760 sức ngựa sẽ cung cấp điện cho thành phố.  

Năm 1902, Doumer về Pháp, dự án đồ sộ của ông bị ngưng lại, kinh phí bị cắt, những công trình xây dựng dở dang. ở Đà Lạt chỉ còn vài nhân vật : một thị trưởng, một giám binh và một trưởng trạm nông nghiệp. Đà Lạt triền miên trong một giấc ngủ dài hơn 10 năm…  

Trong thời gian này, các phái đoàn Beylié (1903), Bennequin (1904), bác sĩ Grall (1904), Bizar (1905), Garnier (1906), Cunhac (1907), Ducla (Bộ công chánh), Bác sĩ Vassal (Viện Pasteur) vẫn nghiên cứu về Lang Bian và những con đường lên cao nguyên, kiến nghị xin tiếp tục xây dựng Đà Lạt - một địa điểm nghỉ dưỡng rất lý tưởng.  

Năm 1907, Hôtel du Lac (Khách sạn Hồ) được cất bằng gỗ là khách sạn đầu tiên ở Đà Lạt. Dựa trên những con đường mòn của người Thượng, nguời ta vạch ra đường phố Đà Lạt.  

Vào những năm đầu thế kỷ XX, Đà Lạt vẫn còn hoang sơ. Năm 1905, trong một dịp lên cao nguyên Lang Bian để thay đổi không khí, bà Gabrielle M. Vassal đã viết về cao nguyên : “Vào khoảng giữa trưa, tôi thấy cao nguyên lần đầu tiên. Thật là một sự phát hiện bất ngờ, khác với những gì trước đây tôi đã từng nghĩ ! Trên một vùng đất rộng là những ngọn đồi tròn, nhỏ, trơ trụi, mọc đầy cỏ thấp, cùng hình dáng và độ cao, quang cảnh giống như một vùng biển gợn sóng xanh. ở giữa, những đỉnh núi Lang Bian cao vời vợi như hòn đảo đá, Đăng Kia nằm dưới chân núi Lang Bian, ở phía bên kia cao nguyên. Cao nguyên bình yên và êm dịu quá ! Chỉ có thông mọc trong những thung lũng giữa các ngọn đồi.  

Xa xa, những mái nhà gỗ ở Đà Lạt nằm cách xa nhau trên đỉnh hay lưng chừng đồi lấp lánh ánh nắng mặt trời”.  

Năm 1907, chồng bà Gabrielle - bác sĩ J.J Vassal - cho biết thêm : “Người Kinh chưa định cư trên những vùng cao của dãy Trường Sơn. ở Đà Lạt, có một nhóm 60 đến 80 nguời Kinh, hầu hết là những người đi buôn chuyến. Họ sống trong những điều kiện rất khổ cực, mặc ít áo quần như ở vùng đồng bằng, bị lạnh, thiếu dinh dưỡng và không có gia đình. Từ Phan Rang hay Phan Thiết lên cao nguyên, với những gánh hàng hóa, họ đi ngang qua những làng mạc đầy nước độc, những vùng rất nguy hiểm và mắc phải bệnh sốt rét. Không khí lạnh càng khiến cho bệnh sốt rét trầm trọng thêm”.  

*  

Năm 1908, P. Duclaux đi ngựa từ Hà Nội vào Sài Gòn. Trên đường đi, ông rẽ từ Phan Rang lên Đà Lạt và đến Đà Lạt ngày 28.3.1908. Ông nhận xét Đà Lạt lúc bấy giờ như sau :  

“Đà Lạt! Tám hay mười mái nhà tranh của người Việt, một nhà sàn bằng ván thô sơ dành cho lữ khách, một vòi nước, quảng trường chợ, một nhà bưu điện đơn sơ, và trên một ngọn đồi, sau hàng rào và giữa rặng thông xanh, vài cái nhà gạch của trung tâm hành chính Đà Lạt. Về chế độ cai trị ở đây cũng thật đặc biệt : có một hội đồng và cả một viên thị trưởng. Ông Champoudry - thị trưởng Đà Lạt - nguyên cố vấn hội đồng thành phố Paris bị thất cử được Doumer đem sang đây và coi như người sáng lập Đà Lạt. Còn cư dân? Vài chục người Việt bị đày, vài khách người Âu đi công tác hay trắc địa, những người thợ săn hay lữ khách hiếm hoi cùng đoàn tuỳ tùng. Tài nguyên? Gần như không có gì hết; không có một khoản ngân sách đáng kể, không có một sự trợ giúp nào cả. Vốn là dược sĩ chuyên trách về vấn đề vệ sinh thành phố Paris, ông thích thú thiết kế hệ thống thoát nước trong thành phố tương lai dựng trên sa mạc này và chờ đợi… (*)  

Trung tâm hành chánh của Đà Lạt không được nới rộng thêm chút nào, vẫn thuộc về tỉnh Phan Rang. Để tránh những sự tranh chấp về quyền hạn, ông Canivey - đại diện của công sứ - sống với gia đình và thuộc hạ cách xa 3km, ngoài phạm vi của Champoudry. Nơi đây, ông đích thực là chủ nhân ông, cai quản một vùng Thượng rộng lớn, để lại cho đối thủ bất hạnh vài chục người Việt thường ra vào trong một làng nhỏ.  

Tôi mang đến cho ông Canivey một lá thư gửi từ Phan Rang và ông giữ tôi lại ăn cơm tối.  

Không những là một người am hiểu miền Thượng, ông còn là một tay thiện xạ có lẽ một phần vì ham thích nhưng chắc chắn vì hoàn cảnh bắt buộc.  

đây, không có thịt nào khác hơn thịt rừng; về rau, chỉ có vài loại rau do người Thượng mang đến hay những người lính tự trồng trọt. Phải thường xuyên chống lại cọp và beo rất nhiều trong khắp vùng. Chuyện cọp là chuyện thường ngày, không phải là chuyện vui bịa đặt mà là một thực tế đáng lo ngại. Chó, ngựa, nhiều người giúp việc, nhiều người bưu trạm đã bị cọp vồ; nhiều người Âu cũng cùng chung số phận.  

Sau khi ăn tối ở đồn cảnh binh, ông Canivey cho bốn người cầm đuốc đưa tôi về vì đường đi rất nguy hiểm từ khi mặt trời lặn. Ông nói với tôi rằng tôi đã lầm khi đến đây một mình.  

Những con chó rừng còn nguy hiểm hơn nữa. Đây là một loại chó cao gần bằng cái bàn, ốm nhom nhưng cực kỳ hung dữ. Chúng kéo đi hàng đàn và đuổi theo con mồi không biết mệt. Chúng tấn công cả cọp và thường chiến đấu đến cùng, dù phải bỏ thây vài mạng. Một lần, con chó của đại úy Lavit - một người thợ săn dũng cảm - bị một đàn chó rừng đuổi theo đến tận trại. Chúng chỉ chịu bỏ đi khi tất cả mọi người trong trại vội vàng chạy ra xa đuổi chúng. Tôi đã từng nghe nói về những con chó rừng ở Qui Nhơn, nhưng những con chó rừng ở đây còn dễ sợ hơn.  

Tất nhiên, Đà Lạt thiếu những trò giải trí quyến rũ. ở trong nhà gỗ và ngủ trên giường gỗ không hấp dẫn du khách chút nào! Không có cỏ cho ngựa và cám bán với giá cắt cổ”.(*)  

*  

Như vậy, theo hồi ký của Paul Duclaux thì hồi ấy (1908) Đà Lạt có viên thị trưởng tên là Champoudry, nhưng thật ra ông ta  chỉ như là người “hướng dẫn” du lịch cho các viên chức thuộc địa cao cấp Pháp có óc mạo hiểm thời ấy, thỉnh thoảng ghé Đà Lạt để săn bắn, nghỉ mát vì cả Champoudry lẫn Hội đồng thị xã của ông vào giai đoạn này không có một khoản ngân sách nào đáng kể, không nhận được một sự trợ giúp nào để xây dựng thành phố cả. Tuy nhiên, khi Toàn quyền Doumer về Pháp, dự án của ông cũng được hoàn thành về các nét cơ bản : đường xe lửa từ Phan Rang đến Xóm Gòn xong (1903-1909); đường bộ từ Phan Rang đi Ma Lâm - Djiring - Đà Lạt hoàn tất tháng 10.1914; lữ quán đầu tiên được xây dựng và khánh thành năm 1907.  

Theo dự án xây dựng Đà Lạt do Toàn quyền P. Doumer thông qua thì việc phát triển thành phố khá quy mô gồm : những biệt thự xinh xắn, những trường học, trại lính và nhất là đường giao thông thuận lợi nhằm biến một vùng rừng núi hoang vu thành một nơi nghỉ dưỡng mang kiểu cách châu Âu. Thế nhưng, giữa lúc công việc đang tiến hành thì P. Doumer phải về nước, Paul Beau lên thay (1902-1908) khiến dự án của Doumer có lúc phải dừng lại và tiến triển rất chậm chạp.  

Thời Toàn quyền Paul Beau tuy có tiếp tục cử nhiều đoàn khảo sát lên cao nguyên Lang Bian : quân sự do tướng Beylié (1903), tướng Pennequin (1904), đại uý Bizar (1905) chỉ huy; Đoàn y tế có các bác sĩ Grall và Vassal lên Đà Lạt, nhưng cũng chưa đầu tư xây dựng thêm gì cho thành phố.  

Đến thời Toàn quyền Klobukowski (1908-1910) mọi hoạt động xây dựng thành phố dường như chững lại. Khi Toàn quyền Albert Sarraut lên thay thế thì ông mới thật sự chú ý đầu tư để cho Đà Lạt phát triển. Nguyên nhân là do sự đe dọa của Nhật Bản nên Chính phủ Pháp mới cho phép mở rộng quyền hạn của Toàn quyền, A.Sarraut được ban hành các nghị định, trích ngân sách để đầu tư cho Đà Lạt theo ý muốn của mình như phát triển y tế, giáo dục và hoàn thành các công trình đường sá lên Đà Lạt trước năm 1914.  

Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) bùng nổ. Điều kiện về thăm quê hương của phần lớn người Âu, đặc biệt là người Pháp, gặp khó khăn lớn. Do vậy, họ không còn cách nào khác là lên Đà Lạt để nghỉ mát, nhất là trong những dịp hè nóng bức, nhờ đó Đà Lạt có điều kiện để phát triển và phải phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu chính đáng của họ.  

Đến năm 1916, Đà Lạt thay đổi nhanh trước khi trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Lang Bian và được Toàn quyền Roume ký nghị định chính thức thành lập ngày 6/1/1916. Tiếp theo đó, ngày 20.4.1916, Hội đồng nhiếp chính Vua Duy Tân đã công bố dụ thành lập trung tâm đô thị (centre urbain) Đà Lạt.  

Theo dụ này, Toàn quyền cho phép mua, bán, sang nhượng đất đai và đầu tư xây dựng trong khu vực. Dụ nói trên nhằm bổ túc các nghị định của Pháp đã ký trước đây vào ngày 30.5.1911 và ngày 6.1.1916. Sau đó, dụ này còn được triển khai và bổ túc trong các nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 5.7.1918. Ngày 31.10.1920, Toàn quyền Maurice Long đã ký nghị định thành lập thị  xã Đà Lạt căn cứ vào dụ ngày 11.10.1920 của triều đình Huế. Thị xã Đà Lạt là thị xã loại 2 (Commune de 2e catégorie) với những quy chế rộng rãi. Ngày 26.7.1923 lại có thêm một nghị định nữa của chính quyền Pháp nhằm tổ chức lại thị xã Đà Lạt.  

Như vậy, Đà Lạt đã có điều kiện phát triển. Cunhac là viên công sứ đầu tiên được bổ nhiệm. Khách sạn Lang Bian Palace (hiện nay là Palace Sofitel Hotel) được xây cất năm 1916 và khai trương năm 1922. Nhà máy điện Đà Lạt ra đời năm 1918 theo sáng kiến của Cunhac để cung cấp điện cho cư dân và du khách đến Đà Lạt. Không dừng lại ở đó, Toàn quyền Đông Dương còn chỉ đạo cho kỹ sư Labbé thực hiện ngăn dòng suối Lạch để tạo thành Hồ Lớn (Grand Lac) nhằm tăng thêm vẻ thơ mộng cho thành phố. Hồ này được hoàn thành vào năm 1919. Đến năm 1920 thì nhà máy nước được khởi công xây dựng. Cũng trong năm này, hệ thống đường bộ từ Phan Rang lên Đà Lạt được cấp tốc đầu tư để khẩn trương hoàn tất. Đường xe lửa răng cưa từ Xóm Gòn lên Đà Lạt cũng được khởi công. Một số nhà xây bằng gạch, trường tiểu học, ngân khố, bưu điện dần dần xuất hiện trong giai đoạn này. Đến năm 1923 thì dự án thiết kế đô thị Đà Lạt của kiến trúc sư Hébrard được thông qua.  

Nội dung chính của đồ án Hébrad là tập trung các vùng dân cư quanh Hồ Lớn (Grand Lac, hồ Xuân Hương ngày nay), phát triển khu cư dân người Việt về phía Tây của hồ.  

Ngoài ra, người Pháp còn cho xây dựng khu công viên, khu thể thao, khu trường học và khu chợ ở ấp ánh Sáng ngày nay. Theo đồ án quy hoạch này, trên dòng suối Cam Ly có một chuỗi hồ: ngoài hồ Xuân Hương và hồ Than Thở như hiện nay, còn có 6 hồ nước khác mà 2 hồ lớn nhất nằm ở khu vực Học viện Lục quân (có nhà thuỷ tạ) và ở giữa đường Hoàng Diệu và Hoàng Văn Thụ trước khi dòng suối chảy đến thác Cam Ly.  

Khu hành chính nằm ở vị trí Học viện Lục quân ngày nay.  

Do cách nhìn kỳ thị của Toàn quyền Pháp lúc này là Meslin (1923-1925) cho rằng: Một thành phố thuộc địa dù là nghỉ dưỡng cho người Pháp cũng không nên mở mang trường đại học và trung học, vì các trường này làm cho dân trí cao, chính quyền Pháp khó cai trị nên Đà Lạt bị thiệt thòi. Từ đó, Meslin chỉ cho phép xây dựng các trường tiểu học nhằm đào tạo nhân viên cấp thừa hành mà thôi.  

Tổ chức hành chính của Đà Lạt ở giai đoạn này khá đơn giản, đứng đầu là một viên công sứ, có một hội đồng thị chính làm cố vấn và các ủy viên chuyên môn như:  y tế, tài chính, cứu tế, văn hóa, thị trường. Dân số lúc này đã lên tới 1.500 người.  

Như vậy, chỉ trong vòng hơn 30 năm kể từ ngày Bác sĩ Yersin tìm ra cao nguyên Lang Bian và đề nghị với Toàn quyền Đông Dương xây dựng nơi đây thành một trung tâm nghỉ dưỡng, Đà Lạt đã có nghiều thay đổi đáng kể. Từ một vùng đồi núi hoang vu mà cư dân đa số là người Lạch, Đà Lạt đã dần dần từng bước hình thành một thành phố nghỉ dưỡng. Có thể nói đây là giai đoạn chuẩn bị cho sự phát triển của Đà Lạt để vươn tới trở thành một trung tâm du lịch nghỉ dưỡng lớn của Đông Dương và là điều kiện để thu hút nhiều người từ chính khách đến người lao động đổ về miền đất này nhằm góp phần xây dựng Đà Lạt trở thành đô thị trong tương lai. Tuy nhiên, để đánh đổi lấy điều đó, số phận của những đoàn người làm phu ở Đà Lạt được nhà yêu nước Nguyễn ái Quốc mô tả trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp như sau : “Trên đường đi lên cao nguyên Lang Bian, đi lên rừng xanh núi đỏ, nơi mà thần chết đang chờ, từng đoàn người dân đi tạp dịch hoặc đi phu trưng tập, lương thực thiếu thốn, có ngày không có một hột cơm vào bụng, họ đã bỏ trốn từng đoàn hoặc nổi dậy chống lại và mỗi khi như thế là bị bọn lính áp giải đàn áp ghê rợn, xác họ rải khắp dọc đường”.

  Trang chủ Trang trước Mục lục Trang sau