![]() |
|||||
Nội dung chính | Trang trước | Mục lục | Trang sau | ||
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, các dân tộc trong tỉnh đã tham gia: Cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống thực dân Pháp, nhất là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vừa qua và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. * I. ÂM MƯU CHIẾN LƯỢC CỦA THỰC DÂN PHÁP TRONG VÙNG CÁC DÂN TỘC ÍT NGƯỜI Ở LÂM ĐỒNG VÀ TÂY NGUYÊN Lâm Đồng và Tây Nguyên là một địa bàn chiến lược về kinh tế và quốc phòng quan trọng đối với cả nước. Chính vì vậy, ngay từ khi mới mon men tới đất Nam Kỳ, tên thống đốc Myredevilers đã ra lệnh cho trung uý Amédée Gautier mở những cuộc thám sát quân sự và địa thế toàn vùng biên khu đông bắc Nam Kỳ, trong đó có Lâm Đồng, nam Tây Nguyên. Những cuộc thám sát và điều tra của thực dân Pháp nhằm tiến tới mở rộng nền thống trị đến các vùng rừng núi phía Nam. Sau nhiều đợt thăm dò, thám sát của các cố đạo và các nhà khoa học, quân đội viễn chinh Pháp tiến hành xâm chiếm vùng Tây Nguyên và Lâm Đồng. Về mặt kinh tế, thực dân Pháp muốn giành lấy độc quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên bằng cách tiến hành tước đoạt đất đai, nương rẫy của đồng bào các dân tộc ít người, lập nên những đồn điền cao su, trà, cà phê và biến họ thành một nguồn nhân công rẻ mạt cho các đồn điền của tư bản. Hàng chục, hàng trăm đồn điền trồng cây công nghiệp nhất là trà, cà phê vùng Lâm Đồng như: Minh Rồng, Cầu Đất, Trảng Bia, Đạ Bin, Tứ Quý, Chauvel, Bunbê v.v.. đều có mặt những người làm phu thuộc các dân tộc ít người ở địa phương... Về mặt chính trị, lợi dụng trình độ thấp kém của đồng bào các dân tộc ít người để gây ra những thành kiến giữa các dân tộc, giữa miền ngược và miền xuôi, chúng muốn tách Lâm Đồng và Tây Nguyên ra khỏi lãnh thổ Việt Nam để chia rẽ các dân tộc lâu dài. Sau hàng ước Giáp Thân (1884) của triều đình nhà Nguyễn, thực dân Pháp chính thức chiếm nước ta và bắt đầu áp dụng chính sách "chia để trị". Chúng chia cắt đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam thành nhiều vùng với nhiều chế độ chính trị khác nhau. Nhưng trước phong trào đấu tranh mãnh liệt của nhân dân các dân tộc ở Việt Nam, âm mưu đó của chúng đã bị thất bại. Theo hiệp ước năm 1893, thực dân Pháp âm mưu sáp nhập Tây Nguyên và Lâm Đồng vào Lào. Nhưng để tiếp tục thực hiện việc nắm giữ các dân tộc ít người ở Lâm Đồng và Tây Nguyên, ngày 16.10.1898, tên khâm sứ Trung Kỳ là Bulôsơ (Boulloche) đã yêu cầu triều đình Huế để cho người Pháp hoàn toàn phụ trách vấn đề kinh tế và an ninh chính trị tại các địa phương nói trên. Với áp lực quân sự nặng nề của thực dân Pháp, triều đình đã phải chấp nhận yêu sách đó của chúng. Và kể từ đó, vùng Lâm Đồng và Tây Nguyên nói chung thuộc quyền "bảo hộ" trực tiếp của thực dân Pháp. Để ve vãn và lừa bịp đồng bào các dân tộc ít người, chúng đưa ra cái gọi là "Đất Thượng của người Thượng". Cụ thể tại những vùng cư trú của các dân tộc ít người ở Lâm Đồng và Tây Nguyên, nhiều khu vực "tự trị", giữa các dân tộc đã được thực dân Pháp thành lập như các tổng của người Mạ ở B'Lao, Mạ Đa Đơng, các tổng "tự trị" của người Stiêng, v.v.. II. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP CỦA CÁC DÂN TỘC ÍT NGƯỜI Ở LÂM ĐỒNG VÀ TÂY NGUYÊN TRƯỚC KHI CÓ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG Mở đầu phong trào đấu tranh chống Pháp của các dân tộc ít người ở Lâm Đồng và Tây Nguyên là sự tham gia tích cực cuộc khởi nghĩa của Trương Công Định năm 1862 (khi Pháp chiếm đóng sáu tỉnh Nam Bộ) của đồng bào Stiêng ở Sông Bé và Biên Hòa, đồng bào Châu ro, đồng bào Mnông ở Lâm Đồng, Đông Nam Bộ và Nam Tây Nguyên đã cùng với nghĩa quân người Việt và người Khơme tấn công quân Pháp ở tỉnh lỵ tỉnh Tây Ninh, giết chết tên tỉnh trưởng La Clôse (Lar Clauze) và độ 10 ngày sau, tên trung tá Macsedơ đem một lực lượng viễn chinh khá mạnh đến ứng cứu cũng bị nghĩa quân tiêu diệt gọn. Dựa vào địa thế rừng núi hiểm trở, và nhất là sự giúp đỡ, đùm bọc của đồng bào các dân tộc ít người, nghĩa quân của ta đánh Pháp hàng chục năm liền, tiêu hao nhiều sinh lực của chúng. a. Phong trào đấu tranh tự phát chống bắt phu, bắt lính của các dân tộc ít người ở Lâm Đồng và Tây Nguyên Sau khi đã bình định xong đồng bằng Nam Bộ và duyên hải Trung Bộ, thực dân Pháp bắt đầu xâm nhập sâu hơn vào vùng Lâm Đồng và Tây Nguyên. Chúng đặt một hệ thống đồn bót chằng chịt để kìm kẹp đồng bào các dân tộc ít người. Năm 1914, Hăngri Mét (Henri Maitre) kéo quân lên xây dựng đồn bót ở Pu Buxra (Pou Bousra) thuộc khu vực cư trú của người M'nông. Tên này nổi tiếng hung ác, thường cho quân lính đi càn quét, cướp bóc của cải của nhân dân địa phương. Chính y đã hiếp và giết cả vợ lẫn con của N'Trang Lơng, vị tù trưởng có uy tín lớn nhất trong vùng. Căm phẫn trước những hành động ngang ngược và tàn bạo của bọn thực dân xâm lược, đồng bào M'nông và các dân tộc anh em khác ở địa phương dưới sự chỉ huy của N'Trang Lơng đã nổi lên tấn công tiêu diệt đồn giặc. Hăngri Mét tiếp tục đem quân lên đàn áp cuộc khởi nghĩa của nhân dân các dân tộc ít người. Ngày 2.8.1914, nghĩa quân lập mưu trá hàng và tổ chức lễ "đầu thú" tại buôn Buno, cách đồn giặc độ chừng nửa ngày đường. Đồn trưởng Hăngri Mét cùng 40 lính ngụy được mời đến dự. Theo phong tục làm phép vũ khí của người M'nông, khi hai bên đã đình chiến và liên minh quân sự với nhau thì vũ khí của hai bên phải xếp lại một chỗ để cúng thần. Hăngri Mét và toàn bộ trung đội lính hộ vệ phải tuân theo. Cơ hội tốt nhất để tiêu diệt giặc đã đến, N' Trang Lơng đã xông ra đâm chết Hăngri Mét và hạ lệnh cho nghĩa quân tiêu diệt gọn 40 tên lính đi theo. Chiến công của nghĩa quân N'Trang Lơng đã làm nức lòng đồng bào các dân tộc ít người ở Lâm Đồng và Tây Nguyên khiến họ càng xiết chặt tình đoàn kết, quyết tâm tiêu diệt quân xâm lược và đẩy mạnh phong trào chống Pháp lên một bước mới. Hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân N'Trang Lơng, đồng bào các dân tộc ít người tỉnh Lâm Đồng nổi lên chống bắt phu, bắt lính, chống chính sách cướp đoạt đất đai của bọn tư bản đồn điền Pháp. Nhân dân Mạ ở Bảo Lộc, dưới sự chỉ huy của K'Dúi đã tổ chức nhiều trận phục kích quân Pháp ở đỉnh núi Pọt Chan, cửa ải duy nhất để đi vào vùng Lộc Bắc. Phối hợp với những trận đánh của quân và dân người Mạ, đồng bào Kơho (Cơdòn) dưới quyền chỉ huy của K'Dúi đã tổ chức nhiều trận chặn đánh quân Pháp ở đèo Lú Đáp (33) trên tuyến đường mòn từ Phan Thiết đi Di Linh. Vũ khí của nghĩa quân lúc bấy giờ chỉ có cung tên, bẫy đá, chà gạt, chông tre, song họ đã chiến đấu với tấm lòng quả cảm, quyết tâm tiêu diệt giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương, đất nước làm cho quân Pháp phải khiếp sợ. Cuộc khởi nghĩa lan rộng toàn vùng các dân tộc ít người ở Lâm Đồng và Tây Nguyên kéo dài tới hàng chục năm sau mới bị dập tắt. Tiếp theo N'Trang Lơng, từ năm 1939, một phong trào quần chúng chống Pháp rất sôi động của đồng bào các dân tộc ít người ở Lâm Đồng và Tây Nguyên lại nổ ra do Sambram - người Chăm Roi phát động. Từ miền tây bắc tỉnh Phú Yên, phong trào lan rộng ra cả vùng Tây Nguyên, nam Trường Sơn. Hàng loạt các căn cứ của giặc ở Trà Mi, Trà Bồng, Sơn Hàn, Đắc Lây, Đắc Sút, Đắc Tô, Kôngplông, An Khê, Đắc Pét, v.v.. đều bị nghĩa quân tấn công dữ dội, nhiều cứ điểm của Pháp đã bị tiêu diệt. Là một thành viên của phong trào chống Pháp do Sambram lãnh đạo, Mụ Cọ (tức K'Nhỗi), Pháp gọi là K'Hoài đã tìm đến ông nhận mệnh lệnh và nước thánh Đạ Yơn về phân phát cho nhân dân các dân tộc ít người ở Lâm Đồng (tức Đồng Nai Thượng), và tổ chức những hội kín, quyên góp tiền bạc, tiến hành các lễ nghi mang tính chất tôn giáo để tập hợp quần chúng các dân tộc ít người trong tỉnh đứng lên chống lại chúng. Ngày 15.6.1938, K'Nhỗi đã tổ chức một lễ cúng có tính chất tuyên thệ của những người tham gia phong trào. Lời cầu nguyện trong lễ cúng được mọi người tham dự học thuộc lòng. Bài cầu nguyện ấy có đoạn như sau: "Hỡi thần núi! Hỡi thần đất! Hỡi thần nước! Hỡi các thần! Hãy giết hết bọn thực dân Pháp xâm lược! Để cho người Thượng, người Chăm, người Việt Nam cùng nhau chung sống trong hòa bình, ấm no, hạnh phúc". Nếu bỏ đi những yếu tố hoang đường, lời cầu nguyện có nội dung động viên đoàn kết các dân tộc ở Việt Nam, đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm, cùng nhau xây dựng cuộc sống mới, một cuộc sống đoàn kết, tương trợ, bình đẳng giữa các dân tộc... Với nội dung đoàn kết, đấu tranh chống ngoại xâm, phong trào Mụ Cọ ở Lâm Đồng (Đồng Nai Thượng) lúc bấy giờ đã tập họp được 10.000 đồng bào các dân tộc ở trong tỉnh tham gia chống Pháp. Dưới sự lãnh đạo của bà (Mụ Cọ), còn có K'Prô, K'Sary, K'Kra, K'Soun, K'Khê, K'Tông, K'Gút, K'Bau, K'Xanh, K'Brin, K'Non, K'Dai. Đó là những người trong bộ tham mưu của phong trào chống Pháp của nhân dân các dân tộc ít người ở Lâm Đồng. Nhờ có quyên góp, những người lãnh đạo phong trào đã mua sắm vũ khi như mã tấu, gươm giáo, cung nỏ v.v... chuẩn bị nổi dậy chống lại chính quyền thực dân xâm lược. Cùng với sự chuẩn bị về tài chính, vũ khí, họ cũng đã bắt đầu chú ý về mặt tổ chức. Phong trào có tính chất tự quản đối lập với bộ máy của bọn thực dân trong vùng dân tộc ít người... Tiếc rằng, phong trào bị thực dân Pháp đàn áp khi còn trong trứng nước. Mụ Cọ và cả "bộ tham mưu" của phong trào đều bị giặc bắt và bị tù đày. Phong trào tạm lắng xuống, nhưng nó đã nhen nhúm lên trong lòng mọi người dân lòng yêu nước, tình đoàn kết dân tộc và ý chí căm thù giặc ngoại xâm. Tuy còn nhuộm đậm màu sắc thần bí, tôn giáo, song đó là một phong trào chống Pháp có quy mô rộng lớn trong vùng các dân tộc ít người ở Lâm Đồng và Tây Nguyên trước khi có sự lãnh đạo của Đảng. Nhìn chung, trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, trước khi có Đảng lãnh đạo, đồng bào các dân tộc ít người ở Lâm Đồng và Tây Nguyên đã nhiều lần nổi lên đánh đuổi bọn thực dân xâm lược. Nhưng tất cả các cuộc khởi nghĩa đó đều thất bại và bị đế quốc Pháp dìm trong bể máu. b. Các dân tộc Lâm Đồng tham gia cuộc Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân các dân tộc anh em trong đại gia đình Tổ quốc Việt Nam, từ những người dân mất nước, những người nô lệ đã đứng lên làm Cách mạng tháng Tám thành công, trường kỳ kháng chiến thắng lợi. Đảng ta luôn luôn chủ trương: "Đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng và tương trợ để tranh thủ độc lập tự do và hạnh phúc chung" (34). Quán triệt tinh thần đó, tháng 8 năm 1945, chớp lấy thời cơ trong nước và ngoài nước vô cùng thuận lợi, nên nhân dân các dân tộc ít người tỉnh Lâm Đồng đã đoàn kết chặt chẽ với người Việt, nhất tề đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi phát xít Nhật giành lấy chính quyền về tay mình. Trên 2.500 đồng bào Mạ, đồng bào Kơho đã tham gia nhiều trận chặn đánh quân Nhật rất quyết liệt tại suối Đạ M're (35), có những trận đánh giằng co nhau, kéo dài ba bốn ngày đêm, quân và dân các dân tộc Lâm Đồng đã tiêu diệt hàng trăm tên phát xít (36), bẻ gẫy nhiều mũi tiến quân của chúng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ buôn làng. Ông Tạ Tion Đôn, người đại biểu đầu tiên của đồng bào các dân tộc ít người ở Lâm Đồng đã được bầu vào Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Lâm Viên trong thời gian tổng khởi nghĩa tháng Tám. Tiếp theo đó nhân dân các dân tộc ít người trong tỉnh đã biến núi Nam Ramay và núi R'Cáp thành hai căn cứ kháng chiến chống Pháp. Nhiều cuộc tập kích quân Pháp của nhân dân các dân tộc ít người đã nổ ra ở đèo B'lao, đèo Giá Bắc. Nhiều địa bàn cư trú của đồng bào đã trở thành căn cứ địa vững chắc của ta trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nhiều người con ưu tú của đồng bào các dân tộc ít người trong tỉnh tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm để giành lại nền độc lập, tự do cho Tổ quốc. Nhiều địa danh và buôn làng bất tử đã đi vào tâm khảm của nhân dân các dân tộc như những chiến công anh dũng và truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm trong lịch sử của dân tộc mình. III. ÂM MƯU CHIẾN LƯỢC CỦA MỸ ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC ÍT NGƯỜI Ở LÂM ĐỒNG VÀ TÂY NGUYÊN Từ năm 1954 trở đi, sau khi hất cẳng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam. Biết rõ vùng Lâm Đồng và Tây Nguyên là một địa bàn chiến lược quan trọng về kinh tế và quốc phòng đối với cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam, Lào, Campuchia, thông qua tên tay sai Ngô Đình Diệm, Mỹ vội vàng tìm cách gạt dần mọi ảnh hưởng còn lại của Pháp tại địa phương. Để thực hiện ý đồ đó của chủ Mỹ, 10-8-1954, Ngô Đình Diệm đề ra yêu sách để buộc tên bù nhìn Bảo Đại, tay sai của thực dân Pháp, phải ký ngay sắc lệnh bãi bỏ chế độ "Hoàng triều cương thổ" cho vùng đất đai ở Lâm Đồng và Tây Nguyên. Nhưng do sự phản ứng ngấm ngầm của bọn tư bản đồn điền Pháp, mãi tới ngày 11-3-1955, với dụ số 21, sắc lệnh trên mới có hiệu lực. Việc bãi bỏ chế độ "Hoàng triều cương thổ" lúc này là một chính sách đầu tiên của Mỹ đánh vào những đặc quyền, đặc lợi của Pháp tại vùng đất đai màu mỡ nói trên. Về sau này, Mỹ-ngụy đã sử dụng máy bay, xe tăng, xe quân sự, bom đạn, chất độc hóa học, bom Napan triệt hạ hàng trăm buôn làng của đồng bào các dân tộc ít người, để dồn ép họ vào các trại tập trung, các "ấp chiến lược", ven các tiểu khu, chi khu quân sự, đường giao thông chiến lược và các thị trấn, thị xã miền núi, nhằm tách quần chúng ra khỏi cách mạng và biến họ thành các vành đai che trở cho các căn cứ quân sự của chúng. Ví dụ như tỉnh Tuyên Đức, trong chiến dịch An Lạc từ tháng 6-1962 đến tháng 10-1963, Mỹ-ngụy đã dồn gần 16.000 đồng bào Chil ở những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh phía bắc tỉnh Tuyên Đức xuống phía bắc thành phố Đà Lạt. Tiếp theo đó, chúng lại dồn họ xuống các "ấp chiến lược" ven đường 21 kéo dài, đường 11, thuộc hai huyện Đức Trọng và Đơn Dương.... Nhiều buôn làng của đồng bào các dân tộc trên địa bàn hai tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức bị bom Napan thiêu hủy. Ví như buôn Curang Gia trên đường số 8 kéo dài, buôn Bờ Sar (37) trên đường 20, chỉ trong một ngày đã bị ba lần máy bay Mỹ dội bom Napan, hàng trăm buôn làng bị triệt hạ. Trên 10.000 nóc nhà của đồng bào dân tộc bị đốt cháy, 22.000 tấn lương thực bị cướp đi và thiêu hủy, gần 15.000 gia súc bị cướp, giết, v.v... Đó là tội ác hết sức dã man của giặc Mỹ trong vùng đồng bào các dân tộc ít người ở địa phương. Hầu hết nông dân miền núi, vùng dân tộc bị đốt hết nhà cửa, nương rẫy, ruộng vườn, họ lâm vào cảnh đói nghèo, cơ cực... Con em của họ một số bị bắt lính, bị sung vào các lực lượng đặc biệt của Mỹ như "Biệt kích Thượng", "Cán bộ Trường Sơn", hoặc vào tổ chức "Dân sự chiến đấu" do chúng trực tiếp huấn luyện và chỉ huy. Số còn lại phải làm tề, điệp và các lực lượng dân vệ phục vụ cho guồng máy chiến tranh xâm lược của Mỹ ở cơ sở xã ấp; một số ít con em thuộc tầng lớp trên bị chúng mua chuộc, lợi dụng và đào tạo cho trở thành những mục sư (38), thầy giảng phục vụ trong các hệ thống nhà thờ Tin lành nhằm ru ngủ, mê hoặc quần chúng, hướng họ đi theo con đường làm tay sai cho giặc, phản lại Tổ quốc, phản lại nhân dân. Hỗ trợ đắc lực cho hệ thống kìm kẹp của Mỹ, tại các trại tập trung, các "ấp chiến lược" vùng dân tộc, hàng chục, hàng trăm nhà thờ mới được mọc lên, hàng ngũ các mục sư, thầy giảng và các tín đồ Tin lành tăng lên nhanh chóng theo đà tăng trưởng của quân đội Mỹ vào miền Nam Việt Nam: ở các ấp chiến lược vùng xã Lát, xã lộc Phú, Lộc Phước 100% đồng bào các dân tộc ít người ở địa phương đã theo đạo Tin lành. Các mục sư Péttơ, Giắcxơn (Jackson), v.v... đã từng sống lâu năm trong vùng dân tộc để chỉ đạo việc truyền giáo, phục vụ cho chính sách đàn áp quần chúng cách mạng trong dân tộc ít người của đế quốc Mỹ. IV. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG MỸ - NGỤY CỦA CÁC DÂN TỘC Ở TỈNH LÂM ĐỒNG a) Giai đoạn 1954 - 1965: Một trong những đặc điểm chung của hai tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức (cũ) từ sau 1954 là ít cán bộ, đảng viên, các cơ sở cách mạng hoạt động yếu ớt (39). Đây cũng là thời kỳ mà cuộc đấu tranh giai cấp giữa một bên là nhân dân lao động các dân tộc trong tỉnh với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước đã diễn ra hết sức gay go và quyết liệt. Theo phương châm công tác tại các vùng tạm chiếm của ta, số cán bộ, đảng viên còn lại của hai tỉnh đã bám chặt các cơ sở ở vùng nông thôn, rừng núi, nhất là vùng đồng bào các dân tộc ít người để giáo dục chính trị, xây dựng thêm cơ sở, tạo bàn đạp vững chắc chuẩn bị thâm nhập vào các thị xã, thị trấn và vùng ven các trục lộ giao thông chiến lược. Để đẩy mạnh hơn nữa công tác trong vùng tạm chiếm, Liên khu ủy khu 5 đã tăng thêm cán bộ vào hoạt động ở nội thành, kết hợp giữa hoạt động đấu tranh hợp pháp và bất hợp pháp đến tấn công địch, và xây dựng phong trào trên khắp ba vùng chiến lược. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban cán sự Đảng thành phố Đà Lạt, quần chúng nhân dân lao động các dân tộc đã dấy lên phong trào đấu tranh chống thuế, và đòi được ra vùng nông thôn để làm ăn, sinh sống. Đến tháng 7-1954, có phong trào đấu tranh đòi chính quyền miền Nam thực hiện nghiêm chỉnh hiệp định Giơnevơ, tiến hành hiệp thương tổng tuyển cử hòa bình thống nhất nước nhà. Để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh hợp pháp của quần chúng, ta đã bố trí cán bộ cốt cán thuộc thành phần các dân tộc ít người vào nắm tề, điệp ở các cơ sở xã, ấp, và một số làm công tác hợp pháp ở Đà Lạt, Bảo Lộc để theo dõi sát từng hoạt động của chúng. Đối phó với ta, địch đưa đồng bào Công giáo từ miền Bắc và di dân từ vùng tự do Liên khu 5 lên sống bao quanh các vị trí quan trọng về quân sự, kinh tế và các tuyến đường giao thông chiến lược của chúng trên địa bàn của tỉnh, Mỹ-ngụy dùng những phần tử phản động trong Thiên chúa giáo để xây dựng bộ máy kìm kẹp của từng địa phương, từng cơ sở. Mặt khác, chúng thực hiện chính sách "tố cộng" đối với quần chúng kháng chiến vùng Khu 5 và miền Đông Nam Bộ mới di cư đến, hòng tiêu diệt tận gốc phong trào cách mạng của đồng bào các dân tộc trong tỉnh. Với luật 10/59, máy chém của giặc kéo lê đi khắp nơi để đàn áp những người kháng chiến cũ.... Nhiều chiến sĩ cách mạng thuộc thành phần các dân tộc ít người trong tỉnh đã anh dũng hy sinh.... Nhưng thời kỳ đen tối của cách mạng miền Nam nói chung, phong trào cách mạng của nhân dân các dân tộc Lâm Đồng (Tuyên Đức và Lâm Đồng cũ) nói riêng đã đến hồi chấm dứt. Dưới ánh sáng của Nghị quyết 15 của Trung ương (40), phong trào cách mạng trên địa bàn Lâm Đồng (Tuyên Đức và Lâm Đồng cũ) ngày càng được củng cố và phát triển nhanh chóng. Cuối năm 1959, trên địa bàn hai huyện Bảo lộc và Di Linh, một đội công tác (41) của ta bắt đầu xây dựng lại vùng căn cứ cũ ở hai xã Chi Lai và Mang Yệu (42) thuộc vùng cư trú của đồng bào Kơho. Đó cũng là hai căn cứ duy nhất còn lại từ cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp trong vùng đồng bào các dân tộc ít người tỉnh Lâm Đồng, và đồng thời đó cũng là điểm xuất phát đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của các dân tộc anh em ở địa phương. từ căn cứ bàn đạp đầu tiên đó, một đội công tác của ta đã xây dựng và phát triển thành vùng căn cứ phía nam quốc lộ 20, với dân số khoảng 5.000 người, căn cứ đó có một vai trò quan trọng nhất định đối với phong trào cách mạng của đồng bào các dân tộc anh em trên địa bàn Khu 6 nói chung và Lâm Đồng nói riêng. Cũng trong thời gian đó một "đội công tác" khác của ta từ hướng bắc Bảo Lộc bắt đầu tiến hành xây dựng căn cứ trong vùng đồng bào Mạ (43) thuộc xã 2, xã 3 và xã 4 (thuộc địa phận xã Lộc Bắc hiện nay) và sau đó phát triển rộng ra gồm cả xã 6, xã 7 và Học Vông, Xi Nhem và Lũ Tôn (nay thuộc xã Lộc Lâm và Đạ Tẻ). Căn cứ có khoảng 5.000 dân, trong đó gần 99% là đồng bào các dân tộc ít người. Đó là một vùng căn cứ đáng tin cậy, đã đóng góp nhiều sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của các dân tộc anh em trong tỉnh. Cùng với hai đội công tác xây dựng vùng căn cứ Nam và căn cứ Bắc quốc lộ 20, một đội công tác khác44 của ta từ miền Đông Nam Bộ, tiến theo hướng Đắc Lắc nhằm khai thông hành lang chiến lược Bắc Nam, đã tiến tới vùng Cát Tiên (45) thuộc địa phận xã Đồng Nai, huyện Đạ Huoai. Khoảng cuối năm 1960, chúng ta đã khai thông đường hành lang chiến lược suốt từ Nam Bộ đến miền Bắc, hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa giao nhau tại Hang Ve (Khiêm Đức), thuộc vùng thượng lưu sông Đồng Nai, ranh giới giữa hai tỉnh Lâm Đồng và Đắc Lắc hiện nay. Cùng với việc xây dựng các căn cứ địa cách mạng vững chắc trong vùng đồng bào các dân tộc ít người, cũng như việc góp phần khai thông hành lang chiến lược Bắc - Nam trên địa bàn toàn tỉnh đã đánh dấu một giai đoạn mới của phong trào cách mạng giải phóng miền Nam nói chung và phong trào cách mạng của đồng bào các dân tộc ở Lâm Đồng dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thống nhất của Trung ương Đảng và sự tiếp sức của các dân tộc anh em trong cả nước. Vào năm 1961, phong trào cách mạng của đồng bào các dân tộc tỉnh Lâm Đồng (cũ) có nhiều chuyển biến tốt đẹp. Các căn cứ phía Bắc và phía Nam đường 20 đã được xây dựng vững chắc, các cơ sở quần chúng được xây dựng và phát triển đều khắp, đặc biệt là vùng đồng bào các dân tộc ít người. Trên cơ sở của phong trào cách mạng của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tháng 11-1961, Trung ương Cục ra chỉ thị thống nhất ba bộ phận công tác của các đồng chí: Nguyễn Xuân Du (tức Tám Cảnh), đồng chí Song, đồng chí Hồng Sơn đang hoạt động ở 3 khu vực trong tỉnh lại. Ngày 1.12.1961 đồng chí Chấn Liêm, được Trung ương Cục miền Nam ủy nhiệm tổ chức cuộc họp tại Bù Run (Lâm Đồng cũ) nhằm thống nhất ba lực lượng đó thành Tỉnh ủy tỉnh Lâm Đồng. Đồng chí Phạm Thuần (Chín Cán) được cử làm Bí thư Tỉnh ủy. Tỉnh ủy (lâm thời) gồm 9 đồng chí, trong đó có một đồng chí thuộc thành phần các dân tộc ít người. Điều đó nói lên sự đóng góp của đồng bào các dân tộc ít người trong tỉnh vào những ngày đầu-những ngày khó khăn gian khổ nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn dân tộc. Cùng với quá trình xây dựng và sự phát triển của phong trào cách mạng trong vùng các dân tộc ít người trên hai huyện Bảo Lộc và Di Linh (Lâm Đồng cũ), vào khoảng đầu năm 1960, một "đội công tác" do hai dồng chí Đinh Sĩ Uẩn và Nguyễn Lâm đã tiến theo hướng Đồng Mang, Đạ Tro, K'Lông, La Hia Đầm Ròn (Đạ M'Rông); K'Pró... thuộc các huyện Đơn Dương, Đức Trọng và Lạc Dương (hiện nay), để tạo điều kiện nối liền với Đà Lạt. Từ Đà Lạt, một "đội công tác" khác của ta do đồng chí Ba Dư phụ trách xây dựng căn cứ đến vùng Rô Men để bắt liên lạc với "đội công tác" từ Đắc Lắc tiến sang. Đội này do hai đồng chí Nguyễn Xuân Khanh và Ma Quang phụ trách từ đường 21 kéo dài phát triển đến Đức Trọng. Phương thức hoạt động của ta lúc bấy giờ là : mạnh dạn và vũ trang tuyên truyền, qua đó phát động quần chúng, và xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng nông thôn, miền núi, nhất là vùng đồng bào các dân tộc ít người. Sau đó, chia thành hai bộ phận, một bộ phận ở lại xây dựng cơ sở và căn cứ cách mạng, một bộ phận tiếp tục tuyên truyền phía trước mở đường. Quần chúng các dân tộc ít người, đa số là người lao động nghèo đã từng sống cơ cực dưới sự áp bức và bóc lột của đế quốc và tay sai, vì vậy, họ rất thiết tha được giải phóng và sẵn sàng hướng theo cách mạng. Các cơ sở và căn cứ của ta được đồng bào góp công, góp sức xây dựng và bảo vệ vững chắc. Trước tình hình phát triển nhanh chóng của phong trào cách mạng trong tỉnh, tháng 11.1961, ta thành lập Tỉnh ủy tỉnh Tuyên Đức (cũ) và đặt cơ quan của tỉnh trong vùng đồng bào các dân tộc ít người (46). Để đối phó với ta, Mỹ ngụy mở chiến dịch An Lạc (tháng 10-1962) nhằm đánh phá vùng căn cứ nằm giữa hai tỉnh Tuyên Đức và Đắc Lắc. Chính vì vậy, trong thời gian này quân và dân trong tỉnh gặp một số khó khăn, nhất là ở vùng nông thôn, vùng căn cứ cách mạng. Riêng thành phố Đà Lạt, ta vẫn giữ được phong trào, duy trì được cơ sở. Trước tình hình đó cuối năm 1965. Tỉnh ủy chủ trương đẩy mạnh công tác vũ trang tuyên truyền, diệt ác, trừ gian, gây dựng lại cơ sở ven đường 11, đường 20 để làm hậu thuẫn cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ở đô thị, nhất là Đà Lạt trong những năm sau đó... Trên địa bàn Lâm Đồng (cũ) dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, ta thành lập 4 K(47) (tức 4 huyện), mà lực lượng phần lớn thuộc thành phần các dân tộc ít người. Nhiều đồng chí người dân tộc đã trở thành những cán bộ lãnh đạo trong các cấp ủy. Nhờ vậy cho tới những năm cuối của cuộc chiến tranh đặc biệt của địch (1964-1965), các Chi bộ và các cơ sở Đảng vùng dân tộc đã phát triển mạnh mẽ. Tính chung của hai vùng căn cứ trong tỉnh: Căn cứ Bắc và căn cứ Nam đường 20 với 10.000 người, ta đã có 9 Chi bộ (48) xã vùng đồng bào các dân tộc ít người. Các cấp ủy Đảng, ngày mỗi được kiện toàn, nhất là từ cấp huyện ủy trở xuống đã có thêm nhiều cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc, tạo thêm sức sống mới cho Đảng bộ địa phương, đủ sức lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân các dân tộc anh em trong Tỉnh tiến lên một bước mới. Dưới ánh sáng của các Nghị quyết Trung ương Cục (lần thứ nhất 10-1961 và lần thứ hai 4-1962), Tỉnh ủy tỉnh Lâm Đồng đã họp vào cuối năm 1962, đề ra phương hướng hoạt động của ta trong giai đoạn tới. Hội nghị đã nhất trí về phương châm chỉ đạo lúc này là: Kết hợp giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, phát động quần chúng các dân tộc trong tỉnh nổi dậy khởi nghĩa, phá vỡ thế kìm kẹp của địch, biến vùng nông thôn, rừng núi, nhất là vùng đồng bào các dân tộc ít người thành vùng căn cứ, lõm căn cứ cách mạng, bảo vệ an toàn hành lang chiến lược Bắc - Nam đi qua địa bàn của tỉnh nhà. Thực hiện chủ trương đó của Tỉnh ủy, ta tích cực phát triển, củng cố thêm lực lượng chính trị, quân sự, bao gồm cả việc phát triển Đảng, các tổ chức đoàn thể quần chúng và lực lượng vũ trang, các cấp ủy Đảng đặc biệt chú trọng xây dựng lực lượng trong công nhân, lao động, nhất là quần chúng cơ bản vùng đồng bào các dân tộc ít người, để chống lại âm mưu càn quét, dồn dân, lập ấp chiến lược của địch, xây dựng và bảo vệ chính quyền của ta. Trước yêu cầu mới, cần có một tổ chức quần chúng rộng rãi để động viên mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc tham gia cách mạng, tháng 8-1962 (49) ta tổ chức Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng toàn tỉnh tại làng Pi Chuốt. Đại hội lần này có mặt đông đủ các đại biểu của trên 48 buôn làng đồng bào các dân tộc trong tỉnh. Trong Đại hội, đồng chí Lam Sơn (tức Ma Hương) một trong những đại biểu ưu tú của đồng bào các dân tộc ở Lâm Đồng được vinh dự bầu làm Chủ tịch mặt trận (50). Sự thành công của Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh đã đánh dấu sự trưởng thành của phong trào cách mạng của tỉnh nhà và sự lớn mạnh của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của đồng bào các dân tộc ở địa phương. Cùng với việc xây dựng và củng cố lực lượng chính trị, Tỉnh ủy đặc biệt coi trọng việc xây dựng lực lượng vũ trang gồm bộ đội tỉnh, huyện và các đơn vị dân quân du kích xã, tổ chức các làng chiến đấu ; nhằm bẻ gãy các đợt càn quét của địch, bảo vệ và xây dựng các căn cứ cách mạng, hỗ trợ cho quần chúng phá ấp, phá kìm. Để làm tròn các nhiệm vụ đó, khoảng đầu năm 1962, đại đội địa phương đầu tiên của tỉnh đã được thành lập ở vùng căn cứ Bắc đường 20. Đơn vị lúc mới ra đời chỉ có 97 người, trong đó có tới 76 đồng chí cán bộ và chiến sĩ thuộc thành phần các dân tộc ít người ở địa phương như người Mạ và nguời Kơho, người Churu. Tiếp theo đó (tháng 1-1963), một đại đội huyện ra đời gồm 150 chiến sĩ, do đồng chí Ma Đen (51) chỉ huy. Từ những đơn vị bộ đội địa phương đầu tiên đó đã phát triển thành tiểu đoàn 140, tiểu đoàn bộ đội chủ lực của tỉnh Lâm Đồng. Với quân số khoảng 500 cán bộ và chiến sĩ thuộc các thành phần dân tộc anh em trong tỉnh, đơn vị đã góp phần xứng đáng của mình trong chiến dịch tấn công vào thành phố Đà Lạt mùa xuân năm 1968. Sau khi tiểu đoàn 140 bộ đội chủ lực tỉnh Lâm Đồng (cũ) được điều đi chi viện cho quân và dân tỉnh Tuyên Đức, Tỉnh ủy chủ trương rút thanh niên ở các cơ quan và thanh niên vùng căn cứ xây dựng thêm một đại đội tăng cường gồm 150 cán bộ và chiến sĩ trong đó có 130 cán bộ, chiến sĩ dân tộc ít người trong tỉnh. Đặc biệt là việc thành lập đơn vị nữ pháo binh 8-3 mà phần lớn cán bộ, chiến sĩ là chị em các dân tộc ít người. Đơn vị nữ pháo binh mồng 8 tháng 3 thật xứng đáng với truyền thống của phụ nữ Việt Nam anh hùng trong lịch sử chống ngoại xâm. Đơn vị đã lập được những thành tích lớn lao, góp phần mình vào công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Là con đẻ của phong trào cách mạng của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, từ những đơn vị nhỏ với vũ khí, trang bị còn rất thô sơ, nhưng họ đã bước vào những trận chiến đấu quyết liệt mặt đối mặt với quân thù cướp nước và bán nước tạo nên những chiến thắng đầu tiên làm nức lòng quân và dân trong tỉnh như : La Oảng, Bắc Ruộng, Đạ Xăng, Di Linh, Bờ Sar và Tân Rai (52)... Cùng thời gian đó, lực lượng vũ trang tỉnh Tuyên Đức (cũ) kết hợp chặt chẽ với Lâm Đồng tấn công Đờ Răng, Thanh Sơn, Quảng Hiệp, Kỳ Đăng, Đầm Ròn... Nhờ những trận đánh táo bạo, đánh thọc sâu vào các sào huyệt của địch trên khắp địa bàn hai tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức (cũ), quân và dân các dân tộc anh em đã buộc chúng phải co lại, phòng thủ hết sức bị động, tạo thời cơ tốt cho ta nổi dậy phá ấp, phá kìm, giành quyền làm chủ ở những mức độ khác nhau. Tháng 11-1963, đứng trước nguy cơ thất bại của "chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ lật đổ chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm. Sự sụp đổ của Diệm - Nhu, đã kéo theo sự rệu rã từng mảng lớn bộ máy kìm kẹp của hệ thống ấp chiến lược của chúng ở vùng nông thôn miền Nam nói chung và ở Lâm Đồng nói riêng. Đứng trước thời cơ mới, theo chỉ thị của Trung ương. Tỉnh ủy chủ trương đẩy mạnh mọi hoạt động của ta vào vùng địch kiểm soát, chủ yếu là xây dựng và phát triển cơ sở cách mạng trong quần chúng tại chỗ, nhằm giành quyền làm chủ của ta ở vùng yếu, vùng tranh chấp và vùng kiểm soát. Đồng thời ra sức củng cố và xây dựng căn cứ thêm vững chắc. Phối hợp chặt chẽ với đấu tranh vũ trang, sau trận đánh vào Bờ Sar và Tân Rai, hai vị trí án ngữ của địch ở phiá Nam và phía Bắc đường 20, quần chúng các dân tộc ít nguời trong các ấp chiến lược, kết hợp với đồng bào Kinh ở các đồn điền, dinh điền, đồng loạt nổi lên phá bỏ ách kìm kẹp của địch ở địa phương, giành quyền làm chủ buôn làng. Được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang của ta, phong trào đấu tranh ở các thành phố, thị trấn, thị xã trên địa bàn Tuyên Đức và Lâm Đồng có một khí thế mới, lôi cuốn hàng vạn quần chúng các dân tộc tham gia. Phối hợp nhịp nhàng với các dân tộc nhân dân lao động người Kinh và thanh niên, học sinh ở các thị xã Bảo Lộc, thị trấn Di Linh nổi lên lôi kéo tầng lớp trí thức, viên chức tham gia. Quần chúng biểu tình phản đối chính sách bắt lính, đôn quân và quốc sách "ấp chiến lược" của địch. Với sức mạnh của đông đảo quần chúng, bộ máy kìm kẹp của địch bị đánh rã từng mảng, quần chúng giành được quyền làm chủ từng phần ở cơ sở. Cũng trong lúc này, ta đã thâm nhập mạnh mẽ vào vùng đồng bào theo đạo Thiên chúa giáo di cư như vùng Tân Thanh, Tân Phát v.v... Bọn phản động đội lốt Thiên chúa giáo đã vô cùng giao động trước sự sụp đỗ quá nhanh của chính quyền Diệm - Nhu và trước sức mạnh của hàng triệu quần chúng, chúng đã mất hẳn chỗ dựa. Ta động viên được sự đóng góp của đồng bào theo đạo Thiên chúa cho cuộc kháng chiến và xây dựng được một số cơ sở trong những vùng này (53). Với những thắng lợi của phong trào đấu tranh chính trị, kết hợp với đấu tranh vũ trang của quân và dân trong tỉnh, đã hỗ trợ đắc lực cho đồng bào các dân tộc ít người nổi dậy phá kìm, phá vỡ hệ thống ấp chiến lược của địch, trở về quê hương cũ làm ăn, góp phần củng cố các căn cứ cách mạng. Ví dụ như toàn bộ hệ thống ấp chiến lược trên các đoạn đường Gia Nghĩa đi Đức Xuyên, Gia Nghĩa - Di Linh... đã hoàn toàn giải phóng. Về phía địch, chúng đã mất quyền kiểm soát trên một phạm vi rộng lớn, hệ thống kìm kẹp của địch đã bị tan rã. Địch không những bị động đối phó với mũi tấn công quân sự của ta, mà đặc biệt rất lúng túng trước những cuộc nổi dậy đấu tranh chính trị của hàng vạn quần chúng các dân tộc, các tôn giáo trong tỉnh. Thế và lực của chúng đã suy yếu và bị tổn thất nghiêm trọng. Thừa thắng tiến lên, quân và dân các dân tộc trong tỉnh làm chủ một số đoạn đường trên quốc lộ 20 từ Long Khánh đến cầu Đại Ninh. Cho tới cuối năm 1963, đầu năm 1964, hầu như toàn bộ vùng cư trú của đồng bào các dân tộc ít người trong tỉnh được giải phóng với khoảng 60.000 người. Lực lượng của địch hầu như chỉ còn lại ở các thị trấn, thị xã. b- Giai đoạn 1965-1969: Đứng trước nguy cơ thất bại của cuộc chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ leo thang thêm một bước mới, phát động cuộc chiến tranh "cục bộ" với sự tham chiến trực tiếp của gần nửa triệu quân Mỹ và hàng chục vạn quân đội các nước chư hầu của chúng trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Tại Lâm Đồng (cũ), địch củng cố chỗ đứng chân của chúng ở các thị xã, thị trấn, căn cứ phòng thủ, từ đó bắt đầu chiếm lại vùng nông thôn rộng lớn đã bị mất trước đây. Về quân sự : Chúng tăng cường thêm chủ lực ngụy, và các lực lượng dân vệ, biệt kích để vừa củng cố, vừa phản công lại ta. Quân chủ lực cơ động của Mỹ cũng tăng cường hoạt động để tiếp sức cho quân đội ngụy dọc theo trục giao thông chiến lược 20. Một mặt địch tìm mọi cách hạn chế, ngăn chặn các mũi tấn công của ta vào hệ thống phòng thủ của chúng. Mặt khác, chúng đánh mạnh ra vùng giải phóng để bình định, gom dân vào ấp chiến lược. Trong thời gian này, chúng đóng chốt ở các vùng Bình Tuy, Hoài Đức, Võ Đắc, Tánh Linh, Định Quán. Từ các cứ điểm này, chúng đánh vào Lâm Đồng về cả hai phía Bắc và Nam đường 20. Cùng với việc đóng chốt các cứ điểm. Chúng dùng phi pháo bắn phá vào các vùng căn cứ của ta, tăng cường rải chất độc hoá học phá hoại mùa màng, nương rẫy của đồng bào các dân tộc ít người trong vùng giải phóng. Bắt đầu dùng " pháo đài bay" B52 triệt hạ những nơi tình nghi có LỰC LƯỢNG CỦA TA. Ở phía Bắc, Mỹ - ngụy củng cố lại căn cứ biệt kích Tân RAI (54), TỪ ĐÓ ĐÁNH SẤU VÀO CẮN CỨ PHÍA BẰC ĐƯỜNG 20. Ở phía Nam, chúng chiếm lại cứ điểm Bờ Sar, Định Quán để làm bàn đạp phản kích ta ở căn cứ phía Nam đường 20. Song song với các hoạt động quân sự đó, Mỹ - ngụy dồn sức gom dân, thành lập lại hệ thống ấp chiến lược dọc theo trục đường 20, biến các ấp chiến lược này thành cứ điểm quân sự liên hoàn, phòng thủ chung quanh thị trấn, thị xã và dọc đường giao thông chiến lược. Về phía ta : Phát huy những thắng lợi về chính trị và quân sự, phong trào cách mạng vẫn đi lên, nhằm đánh bại âm mưu lấn chiếm của địch, duy trì các cơ sở ở vùng kìm kẹp. Địch bị tiêu hao và tiêu diệt nhiều sinh lực, vùng căn cứ của ta không những không bị mất dân, mất đất mà ngày càng phát triển lớn mạnh, phong trào du kích chiến tranh ở vùng dân tộc lên cao mang tính chất là một phong trào quần chúng rộng rãi. Các chi bộ vùng dân tộc ít người, dọc đường số 8 kéo dài, trưởng thành rất mạnh, các đội du kích dân tộc đã bám địch chiến đấu rất dũng cảm, lập được nhiều thành tích vẻ vang. Đặc biệt là các căn cứ phía Bắc đường 20, đồng bào Mạ đã bám chặt địch chiến đấu để bảo vệ khu căn cứ. Đồng bào vừa sản xuất lương thực, thực phẩm, tham gia bộ đội, đi dân công... đóng góp nhiều sức người, sức của và xương máu của con em mình cho cuộc kháng chiến vĩ đại. Các căn cứ cách mạng trong vùng đồng bào các dân tộc ít người như: Mạ (căn cứ Bắc), Kơho (căn cứ Nam) và các căn cứ thuộc huyện Lạc Dương và Đức Trọng (vùng Kơho) với dân số khoảng 13.000 người (55). Đó là hậu phương tại chỗ, đáng tin cậy của hai tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức, là các bàn đạp dừng chân để tấn công vào các đô thị, thành phố, thị xã, thị trấn sào huyệt cuối cùng của Mỹ-ngụy trong giai đoạn mới. Cùng với đồng bào Mạ, Kơho ở các vùng căn cứ ở Lâm Đồng có những buôn làng, trong một thời gian ngắn đã hàng chục lần dời lên vùng cao để xây dựng và bảo vệ vùng căn cứ cách mạng. Ví như : đồng bào Kơho buôn Đạ Rơmít (56), vùng Đầm Ròn khi bị giặc tấn công đã kiên quyết dời làng để xây dựng lại căn cứ cách mạng. Đồng bào các dân tộc ở làng Mang và buôn Đạ Tơ Rinh đã kiên trì chịu đựng đói rét, bom đạn ác liệt và cả những thủ đoạn lừa mị của Mỹ - ngụy để bảo vệ căn cứ kháng chiến của ta. Các đoàn thể của ta ở vùng căn cứ dân tộc như tổ nông hội, đoàn thanh niên, nhất là các chi bộ Đảng hoạt động rất mạnh. Trong thời gian này, ta liên tục phát động quần chúng củng cố các chi bộ vùng dân tộc và thường xuyên bồi dưỡng phong trào. Vùng địch tạm kiểm soát, chủ yếu là vùng thị xã, thị trấn và ven các trục lộ giao thông, đồng bào các dân tộc ít người bị gom vào ấp chiến lược, bị kìm kẹp, sản xuất lương thực bị giảm sút nghiêm trọng. Chính sách kìm kẹp, đàn áp đồng bào dân tộc trong thời kỳ này của địch còn khắc nghiệt hơn thời Diệm - Nhu. Cơ sở của ta trong các ấp chiến lược ít nhiều bị tổn thất, một số quần chúng tốt bị bắt và bị tra tấn đời sống vô cùng cực khổ. Trong cuộc đấu tranh đó, ta nhờ có thực lực chính trị và vũ trang của vùng căn cứ, vùng dân tộc ở tại chỗ nên đã liên tiếp đánh vào chính sách bình định lấn chiếm của địch, hỗ trợ đắc lực cho phong trào chính trị của đồng bào các dân tộc ít người ở vùng địch tạm thời kiểm soát. Năm 1965, trên 3.500 đồng bào Mạ, Kơho trong các ấp chiến lược quanh thị trấn Di Linh đã ồ ạt kéo nhau vào quận lỵ đấu tranh đòi cứu đói, cứu đau, đòi trả lại chồng, con bị bắt lính, đòi trở về làng cũ làm ăn sinh sống. Cuộc đấu tranh đã được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân các dân tộc anh em ở địa phương, buộc bọn ngụy quyền phải nhượng bộ, Đồng bào Mạ ở các buôn Bờ Ầu, Bờ Xu thuộc vùng Tấn Lú, huyện Bảo Lộc đã mang theo cả con cái và tư trang của mình kéo vào tỉnh lỵ đấu tranh đòi được tự do đi lại làm ăn sinh sống. Tại các ấp chiến lược ở Đạ Huynh, Đạ Bờ Rếch, huyện Đức Trọng, đồng bào các dân tộc ít người đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh công khai với địch để phá lỏng, phá rã thế kìm kẹp của chúng.. Trên cơ sở đó của phong trào đấu tranh cách mạng trong vùng địch hậu, các cấp ủy Đảng đã lãnh đạo đồng bào các dân tộc anh em ở địa phương kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, tiến lên xây dựng lực lượng tự vệ bí mật ngay trong lòng địch để tiêu diệt bọn đầu sỏ ác ôn, không cho chúng ngang nhiên đi lùng sục trong các buôn làng. Chẳng hạn như ở Đăng Lú, Đạ Đinh, huyện Bảo Lộc, ấp 16, ấp 17, ấp Đạ Đờn, ấp Ma Wich huyện Di Linh v.v... Kết hợp chặt chẽ giữa nông thôn và thành thị, đồng bào các dân tộc ở thành phố Đà Lạt (57) đồng loạt xuống đường đấu tranh chống các chính sách chia rẽ dân tộc, phân biệt đối xử giữa các tôn giáo của chế độ Mỹ - ngụy. Lực lượng tuần hành đã chiếm Đài phát thanh và khu chợ Hoà Bình trong hai ngày liền. Nhờ có sự uốn nắn kịp thời của cấp ủy, phong trào đã động viên được tinh thần cách mạng của quảng đại quần chúng nhân dân các dân tộc anh em ở địa phương và qua đó cho ta thấy rõ khả năng vận động quần chúng hành động cách mạng một cách mạnh mẽ, rầm rộ ngay giữa sào huyệt của Mỹ - ngụy. Và đó chính là những đợt diễn tập chuẩn bị cho đợt tiến công và nổi dậy đầu năm 1968 của quân và dân các dân tộc anh em trong tỉnh. Với khí thế Mậu thân, trong giai đoạn tổng công kích và tổng khởi nghĩa, nhân dân các dân tộc anh em ở địa phương đã đứng lên đấu tranh quyết liệt, phá vỡ một số khu gom dân và các ấp chiến lược của địch, kết hợp với lực lượng vũ trang cách mạng tấn công vào các căn cứ quan trọng của chúng. Quân và dân các dân tộc anh em trong địa bàn Bảo Lộc và Di Linh đã tấn công vào căn cứ đóng quân của Mỹ ở Đại Lào, làm chủ trận địa trong 8 tiếng đồng hồ. Tiếp theo đó là những trận tập kích, phục kích quyết liệt quân giặc ở cầu Đam Rông, ấp 17, thị xã Di Linh, Bảo Lộc v.v...(58). tại Lạc Dương, Đơn Dương và Đức Trọng, ta đã tấn công Mỹ - ngụy ở khách sạn Lơrơvin (Lerevin), Duy Tân, Đà Lạt. Tiếp theo đó là các đợt tập kích vào các căn cứ của chúng như Phú Thạnh, Đạ M'Bao, Phú Hội, Phú Sơn, Xuân Trường, Xuân Thọ v.v... tạo nên một thế trận bao vây tiêu diệt địch trong giai đoạn mới. Lúc này, Đà Lạt là điểm của tỉnh và của cả khu 6, nên ta đã huy động lực lượng vũ trang của cả hai tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức. Tiểu đoàn 140, bộ đội chủ lực của Lâm Đồng được chi viện kịp thời cho trận tấn công vào thành phố Đà Lạt. Đặc biệt là sự tham gia của 500 đồng bào Mạ ở vùng căn cứ Bắc của Lâm Đồng, hàng hai ba tháng trời, trèo đèo, vượt suối, chuyên chở súng đạn từ biên giới Campuchia, chuẩn bị cho cuộc tấn công vào các đô thị trên địa bàn hai tỉnh. Nhiều chị em phụ nữ Mạ vừa địu con, vừa gùi đạn để tiếp tế cho chiến trường. Đó là những hình ảnh hết sức cảm động của đồng bào Mạ cũng như đồng bào các dân tộc ít người trong vùng căn cứ. Sau khi đã chuẩn bị chiến trường, quân và dân các dân tộc trong tỉnh đã tiến công vào Đà Lạt theo các hướng đã định. Đánh vào tiểu khu, tỉnh đoàn Bảo An, khu chợ rồi rút khỏi trung tâm thành phố trụ lại phiá Tây Bắc vùng ngoại ô trong 12 ngày liền. Đợt tấn công vào Đà Lạt có nhiều hình ảnh đáng ghi nhớ. Đó là sự phối hợp nhịp nhàng giữa quân sự và sự nổi dậy hỗ trợ đắc lực, kịp thời của quần chúng. Bộ đội đi trước, quần chúng giương băng cờ, biểu ngữ theo sau. Các cơ sở và quần chúng đã chỉ cho bộ đội ta bắt gọn 35 mật vụ của địch. Nhiều đồng bào đã tham gia đào hào, đắp chiến lũy, tiếp tế và cùng chiến đấu dưới làn bom đạn của máy bay địch. Có những cụ già và những cô gái đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng bên cạnh các chiến sĩ giải phóng quân của ta. Điều đó nói lên tính chất nhân dân cao độ của cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước ở địa phương. Tiếp tục thất bại trong chiến lược chiến tranh cục bộ (1965-1968), quân xâm lược hòng cứu vãn tình thế, trấn an tư tưởng ngụy quân và ngụy quyền, đế quốc Mỹ đưa ra cái gọi là chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh". Thực hiện tham vọng đó, Mỹ - ngụy tiến hành các kế hoạch "bình định cấp tốc', "bình định đặc biệt", nhằm giành dân, giành đất với ta ở những vùng đã mất. Đây là một giai đoạn đặc biệt mà cuộc đấu tranh giữa ta và địch diễn ra hết sức ác liệt. Địch chà đi, xát lại, tung hết mọi lực lượng, sử dụng mọi thủ đoạn để thực hiện các kế hoạch bình định đó của chúng. Đầu năm 1969, Mỹ - ngụy xua quân càn quét, đánh phá vào xã 1, xã 2, xã 7 và buôn Bờ Trú thuộc căn cứ cách mạng của ta ở Bắc Bảo Lộc. Quân và dân các dân tộc anh em ở địa phương đã chiến đấu quyết liệt, tiêu hao và tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân của chúng. Không cam chịu thất bại, đầu năm 1970, sư đoàn "Kỵ binh bay" hợp lực với quân ngụy mở một trận càn quét quy mô lớn vào vùng căn cứ cách mạng của ta thuộc vùng đồng bào Mạ phía Bắc lộ 20. Quân và dân xã 1 vùng căn cứ đã chiến đấu hết sức mưu trí, dũng cảm, bắn rơi (59) chiếc máy bay HU1A của tên trung tướng Kisi, tư lệnh trưởng sư đoàn "Kỵ binh bay" của Mỹ, tiêu diệt toàn bộ ban tham mưu, bẻ gãy cuộc hành quân của chúng. Tiếp đến quân và dân các dân tộc anh em đã tấn công vào căn cứ của Mỹ - ngụy trên địa bàn toàn tỉnh như : chi khu Đức Trọng, trường Võ bị Đà Lạt, trung tâm chính trị, tiểu khu, khách sạn Palace, Đam Bao... Giữa lúc những trận tấn công của ta đang tiếp diễn, cấp trên ra chỉ thị cho quân và dân các dân tộc ở địa phương phải mở một cuộc tấn công với quy mô tương đối lớn vào Đà Lạt và phải chiếm giữ thành phố trong 24 tiếng đồng hồ. Mặc dù có một số khó khăn nhất định, song quân và dân các dân tộc anh em đã hoàn thành nhiệm vụ đó, chiếm giữ Đà Lạt trong 36 tiếng đồng hồ, tiêu diệt trên 700 tên địch. Trong hoàn cảnh khó khăn và ác liệt của toàn bộ chiến trường miền Nam trong những năm 1969-1970, trận tấn công đánh chiếm Đà Lạt lúc này của quân và dân các dân tộc Lâm Đồng có một ý nghĩa chính trị to lớn đối với dư luận trong và ngoài nước lúc bấy giờ. Sau đó, Mỹ - nguỵ tập trung lực lượng càn quét vùng căn cứ, vùng ven. Ở nội thành một số cơ sở của ta bị bắt, phong trào gặp nhiều khó khăn. Tuy vậy, cán bộ, đảng viên của ta vẫn bám lấy các cơ sở duy trì phong trào, chuẩn bị cho đợt tấn công năm 1972 và đầu năm 1973, chào đón hiệp định Pari. Trên địa bàn Lâm Đồng cũ, nhờ có hai căn cứ trong vùng dân tộc lớn mạnh và vững chắc, nên ta vẫn giữ được thế tấn công địch trên ba mũi: Quân sự, chính trị và binh vận. Về quân sự: Lợi dụng thời cơ địch còn hốt hoảng sau những trận tấn công dồn dập của ta vào Đà Lạt đầu năm 1970, ta tiếp tục tấn công Trảng Bia, Tứ Quý, uy hiếp An Lạc và làm chủ đèo B'Lao. Nổi bật trong thời gian này là những trận chiến đấu quyết liệt của bộ đội địa phương và dân quân du kích ở các căn cứ vùng đồng bào dân tộc ít người. Tuy vũ khí trang bị còn thô sơ, nhưng với tấm lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội họ đã chiến đấu hết sức dũng cảm và lập được nhiều thành tích vẻ vang, kể từ tháng 1.1969 đến tháng 8.1970, du kích và bộ đội các căn cứ vùng dân tộc đã bắn cháy và bắn rơi 61 chiếc máy bay hiện đại của Mỹ (60). Có những tập thể xã của đồng bào dân tộc là những tập thể anh hùng như xã 4, xã 5, xã Bảo Tuân. Đáng chú ý nhất là xã Xi Nhon, một tập thể của đồng bào Mạ luôn luôn giữ lá cờ đầu về phong trào nhân dân, dân và quân du kích hạ nhiều máy bay địch. Có nhiều trận "săn bắn máy bay" Mỹ của dân và quân Mạ thật điển hình (61). Ví như trận săn máy bay của du kích xã Xi Nhon ở đỉnh núi Tô Lam. Họ hợp đồng thật chặt chẽ, đồng loạt nổ súng bắn rơi tại chỗ 2 máy bay địch và bắn bị thương 2 chiếc khác. Có những đợt đi săn bắn máy bay, chỉ trong một ngày du kích xã đã bắn hạ 7 máy bay của Mỹ. Về trình độ kỹ thuật bắn máy bay, chúng ta thấy những chiến sĩ dân quân du kích vùng dân tộc của ta có những tiến bộ rõ rệt: Từ việc bắn hạ các loại máy bay hiện đại của Mỹ từ thấp đến cao như: L19, đến "cần cẩu bay", C123 (rải chất độc hóa học), C 130 (vận tải hạng nặng), trinh sát điện tử, B57, phản lực siêu âm (F100) "thần sấm" (F105), v.v... Trong những chiến công chung của các tập thể anh hùng, chúng ta thấy nổi bật nhiều đồng chí một mình đã nhiều lần hạ máy bay địch, phát huy truyền thống bất khuất của quân và dân các căn cứ vùng dân tộc đối với kẻ thù xâm lược. Chẳng hạn như đồng chí K'Mèo (62), mới 15 tuổi, một mình một lúc hạ một trực thăng và bắn bị thương một chiếc khác. Đồng chí K'Kha du kích căn cứ, bằng súng trường bộ binh đã bắn hạ cả "thần sấm" (F105) của không lực Hoa kỳ. Trong trận địa chiến đấu lúc bấy giờ anh thường tâm sự với anh em đồng đội của mình "Tôi cầu cho trực thăng Mỹ đến để đánh tiếp". Lời nói của anh trung thực, giản dị nhưng đẹp biết chừng nào. Nó nói lên tinh thần chiến đấu ngoan cường trước quân thù cướp nước của quân và dân các căn cứ vùng đồng bào các dân tộc ít người trong tỉnh. Tinh thần chiến đấu dũng cảm đó thể hiện trong hành động và việc làm thường ngày của họ. Chẳng hạn, anh em dân quân du kích xã 4 đã kiên trì phục kích ở đỉnh núi Bơ Rơ Lam, đã bắn hạ một máy bay C130 của Mỹ chuyên đi bắn phá mùa màng và sau đó lại tiếp tục tập kích 4 trận khác khi địch đổ quân định lấy xác máy bay và tiêu diệt 24 tên giặc khác... Với tinh thần chiến đấu dũng cảm và những thành tích vẻ vang trong phong trào bảo vệ các căn cứ địa cách mạng, quân và dân vùng dân tộc xứng đáng được tặng thưởng huy chương Quân công Giải phóng. Đó là niềm vinh dự và tự hào của đồng bào các dân tộc trong tỉnh và đó cũng là những đóng góp đáng quý, đáng trân trọng của đồng bào các dân tộc ít người ở Lâm Đồng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vừa qua. Từ năm 1971 trở đi, Mỹ-ngụy ra sức củng cố và tăng cường thêm lực lượng để thực hiện các kế hoạch "Bình định củng cố", "Bình định phát triển", nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường miền Nam nói chung và Lâm Đồng nói riêng. Quán triệt tinh thần chỉ thị của Trung ương, hội nghị các cấp ủy ở địa phương đã đề ra nhiệm vụ cho năm 1972 là: Động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong tỉnh, đẩy mạnh tinh thần cách mạng tiến công, kết hợp chặt chẽ giữa hai mũi, ba vùng, nỗ lực khẩn trương hoàn thành bước một, tạo thời cơ và sẵn sàng chớp thời cơ để tiến công địch. Thực hiện chỉ thị của Trung ương và Nghị quyết của các cấp ủy, quân và dân các dân tộc anh em đã hoạt động trên nhiều mặt và thu được những thắng lợi to lớn. Trong mặt trận đấu tranh vũ trang, kết hợp với quân và dân trên địa bàn khu 6, quân và dân Lâm đồng mở nhiều đợt tấn công vào Thanh Bình, Đà Lạt, Tùng Nghĩa, Đại Ninh tiêu diệt 6 tiểu đoàn với khoảng 1.100 tên (63) trong đó có tiểu đoàn 2 biệt động quân, đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn khác của địch. Tại địa bàn Bảo Lộc và Di Linh, từ tháng 4-1972 đến tháng 1-1973, quân và dân các dân tộc đã tổ chức 653 trận đánh lớn, nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 2.933 tên địch. Riêng 5 ngày đánh, ta đã đánh 63 trận, diệt 212 tên, bắn rơi 2 máy bay, bắn bị thương 2 chiếc khác, phá hủy 43 xe quân sự, đánh sập 12 lô cốt, phá 12 trụ sở xã, 2 cầu, tiêu diệt một số lớn ác ôn và 2 ban tề xã của chúng. Phối hợp nhịp nhàng với mặt trận quân sự, nhân dân các dân tộc ít người trong vùng địch hậu đã tổ chức 121 cuộc đấu tranh chính trị với trên 200 nghìn lượt người tham gia, trong số đó, có 28 cuộc quần chúng các dân tộc ít người đã kéo lên quận, tỉnh và thành phố, 47 cuộc đấu tranh với bọn ngụy quyền xã ấp. Chẳng hạn như gần 2.599 đồng bào Kơho ở ấp chiến lược Đạ Dòn đấu tranh liên tục trong ba ngày liền với bọn ngụy quyền địa phương đòi cứu đói, cứu đau, đòi trả lại chồng con bị bắt lính. Trên 1.000 đồng bào Mạ và Kơho đã siết chặt đội ngũ, kéo vào khu cảnh sát Di Linh đấu tranh, giằng co với địch đòi phải trả ngay số con em của đồng bào vừa mới bị bắt lính. Trong cuộc đấu tranh quyết liệt đó, một mẹ già đã thắt cổ tự tử để phản đối chính sách bắt phu, bắt lính của Mỹ-ngụy, buộc chúng phải trả những người thân bị bắt. Khoảng 2.400 đồng bào Mạ và Kơho ở các ấp chiến lược Đặng Sol, Tam Bố, Hang Củi, Bờ Xút, Đại Ninh đã tuyệt thực trong 7, 8 ngày liền đòi được tự do trở về buôn làng cũ đễ làm ăn sinh sống v.v... Cùng với đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, công tác binh vận và phát triển lực lượng cách mạng đã được quân và dân các dân tộc hết sức chú ý các đội tuyên truyền đã tiến hành giáo dục chính sách 10 điểm của mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam cho 17.930 người trong vùng tạm chiếm, trong đó có 760 gia đình binh lính, 266 lính bảo an, 590 phòng vệ dân sự, 86 tề xã, cải tạo trên 22 thám báo, 15 cảnh sát, nắm và sử dụng có mức độ 68 dân vệ, tranh thủ, cầu an và hạn chế sự hoạt động của 88 dân vệ khác... chẳng hạn như 550 phòng vệ dân sự thuộc đồng bào Mạ và Kơho ở Di Linh đã nạp súng cho ta buộc địch phải thu hồi 1.500 khẩu súng khác của chúng đã trang bị cho lực lượng dân vệ ở địa phương. Trong năm 1972, ta đã phát triển thêm 722 cơ sở cách mạng, trong số đó có 19 đảng viên, 37 đoàn viên, 285 hội viên phụ nữ, 155 nông hội, thành lập thêm một Chi bộ và 2 Chi đoàn mới. Kết hợp giữa ba mũi giáp công, ta đã xóa trắng thêm 16 ấp chiến lược và 4 buôn khác thuộc vùng các dân tộc ít người. Đặc biệt là trên 118 đồng bào Kơho ở ấp Mang Tố đã phá bỏ khu tập trung Bờ Sa, trở về tăng cường lực lượng cho căn cứ cách mạng phía Nam lộ 20. Đầu năm 1973, nhân thời cơ ký kết hiệp định Pari, chuyển 610 đồng bào các dân tộc ít người thuộc trại tập trung Pu Rát thành vùng giải phóng. Tại các địa bàn khác ta đã lấn địch trên 8 ấp chiến lược, 3 đồn điền và 7 đoạn đường trên các trục lộ 11, 20 và các đoạn đường khác nối liền các tiểu khu, chi khu quân sự với các đồn bót của chúng. Chẳng hạn như đường B'lao đi Tân Rai, Gia Nghĩa đi Kiêm Đức v.v... Nhờ các hạt nhân lãnh đạo, ta bung mạnh ra hoạt động, quần chúng các dân tộc với một khí thế mới tổ chức một số cuộc đấu tranh hưởng ứng hiệp định Pari làm cho binh lính địch cầu an, dao động tránh đụng chạm với ta. Quân và dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã ngăn chặn và làm thất bại kế hoạch bung ra lấn chiếm, "tràn ngập lãnh thổ" của địch, đẩy chúng vào thế cố thủ, bị động. Còn ta vẫn giữ vững được các địa bàn, phát triển thế tấn công áp sát địch chuẩn bị cho tổng tấn công và nổi dậy đều khắp mùa xuân 1975. c) Giai đoạn 1975 Do có chuẩn bị và tăng cường lực lượng cách mạng về mọi mặt từ các giai đoạn trước, phối hợp nhịp nhàng với những trận tấn công chiến lược của quân và dân các dân tộc anh em trên địa bàn Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ ngày 10.4.1975, quân và dân các dân tộc Lâm Đồng lần lượt bao vây, tấn công tiêu diệt địch, giải phóng các thị xã, thị trấn và thành phố như: Bảo Lộc (28.3.1975), Di Linh (29.3.1975), Đà Lạt (30.4.1975) và toàn bộ tỉnh nhà. Với việc giải phóng nhanh chóng các căn cứ của địch trên địa bàn toàn tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân khu 6 và miền Đông Nam Bộ giải phóng Phan Thiết (19.4.1975), Bình Tuy (23.4.1975), Xuân Lộc (24.4.1975), Biên Hòa (28.4.1975) v.v... Mở đường và hỗ trợ cho các binh đoàn chủ lực cơ động của ta rảnh tay tiêu diệt các căn cứ quan trọng của địch, giải phóng Sài Gòn, kết thúc thắng lợi trọn vẹn chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng toàn bộ miền Nam Việt Nam, mở đầu một giai đoạn mới, giai đoạn các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam cùng làm một nhiệm vụ chiến lược tiến lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. d) Giai đoạn 1975-1978, giai đoạn củng cố chính quyền cách mạng và xây dựng cuộc sống mới Phát huy truyền thống đoàn kết, chiến đấu dũng cảm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vừa qua, sau ngày giải phóng, đồng bào các dân tộc anh em tỉnh Lâm Đồng bắt tay ngay vào công việc củng cố chính quyền cách mạng đã giành được và tổ chức xây dựng cuộc sống mới. Hàng chục đại biều ưu tú của đồng bào các dân tộc ít người đã trực tiếp tham gia lãnh đạo, chính quyền đoàn thể, các ngành, các cấp. Nhiều chị em phụ nữ dân tộc đã trở thành những người cán bộ lãnh đạo của tỉnh nhà. Có những người con ưu tú, tiêu biểu nhất cho tinh thần đấu tranh cách mạng của dân tộc, ít người trong tỉnh vinh dự được bầu làm đại biểu Quốc hội, cơ quan quyền lực tối cao của các dân tộc anh em trong cả nước... Trước những thắng lợi rực rỡ của cách mạng, một số tàn quân của bọn Fulrô, theo lệnh của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế ra sức hoạt động, phá hoại. Thực hiện chỉ thị của ban Bí thư Trung ương, quân và dân các dân tộc anh em trong tỉnh bắt tay vào việc phát động quần chúng hành động cách mạng, trấn áp bọn phản động Fulrô, củng cố chính quyền cách mạng, và đoàn kết, tương trợ nhau trong sản xuất, chiến đấu chống ngoại xâm, quân và dân các dân tộc trong tỉnh đã thu hút được những thắng lợi to lớn. Tính đến cuối tháng 10.1975, ta đã bắt sống trên 3.103 tên, gọi hàng 1.557 tên khác, thu 65 tấn đạn và gần 1.000 súng các loại. Trong số bị bắt có cả những tên phản động đầu sỏ như tỉnh trưởng, quận trưởng, ban tham mưu và các tướng tá của bọn Fulrô... Với những thắng lợi đó, chính quyền cách mạng ở hầu khắp các xã trong tỉnh đã được củng cố một bước và ngày càng vững mạnh. Đông đảo quần chúng lao động các dân tộc anh em tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong việc tổ chức xây dựng cuộc sống mới. Mối quan hệ giữa các dân tộc đã có một sự thay đổi về chất. Đồng bào Kinh giúp đồng bào Thượng sản xuất, đồng bào Thượng tự nguyện nhường đất đai của mình cho đồng bào Kinh cùng tăng gia sản xuất... Phong trào vận động định canh, định cư, kết hợp với công tác thủy lợi đã và đang đạt những thắng lợi khả quan. Những công trình thủy lợi lớn như: Đạ Đờn (64), Mờ Lọn (M'Lọn), Ma Danh, Lạc Binh, Ký Pờ Ró (K'Pró), v.v... Đang được xây dựng. Nhiều ngành nghề mới như nghề trồng rừng, nghề khai thác quế nhựa thông rễ thông, song mây v.v... đã được xây dựng tại các xã dân tộc như xã Lát, Kinplanhon Hạ (Kinplanhon Hạ), Ninh Gia, Lộc Lâm, suối Tía, Cam Ly v.v... Các tổ chức vần công, đổi công, các tập đoàn sản xuất và hợp tác xã liên dân tộc giữa đồng bào Kinh và đồng bào Thượng đang được xây dựng. Những vùng kinh tế mới của đồng bào các tỉnh miền xuôi như: Hà Nội, Hà Sơn Bình, Hà Nam Ninh, thành phố Huế, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Lạt v.v... dần dần được xây dựng. Đồng bào miền ngược đang sát cánh cùng đồng bào miền xuôi tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa việc phân công lại lao động và xây dựng nền kinh tế, quốc phòng trên địa bàn toàn quốc, phát huy thế mạnh của từng vùng nhằm từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc. Cụ thể nhất là vấn đề lương thực; tính bình quân theo đầu người trước ngày giải phóng (trước 1975) là 47 kg một người trong một năm, hầu hết lương thực trước đây là phụ thuộc vào ngoại viện của đế quốc Mỹ. Nhưng chỉ một thời gian ngắn ngủi, năm 1977, số lương thực tính theo bình quân đầu người trong tỉnh đã lên tới 147 kg một người trong một năm. Theo đà phát triển đó đến năm 1979 số lương thực bình quân đầu người đã lên tới 230 kg. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng sản xuất phát triển mau chóng. Trong nông nghiệp đã hình thành nền kinh tế tập thể dưới các hình thức và mức độ khác nhau chiếm 80%, số hộ nông dân và 90% diện tích canh tác. Về giao thông vận tải, nhiều đoạn đường đi vào các vùng dân tộc xa xôi hẻo lánh đã được các dân tộc anh em góp công, góp sức xây dựng. Chẳng hạn như đoạn đường từ Ma đa gui đi vào xã Lộc Trung (nay là xã Đạ Tẻ) đoạn đường xuyên rừng, xuyên suối đi xã Lộc Bắc, nơi căn cứ địa cách mạng, đoạn đường dài đi vào xã Đầm Ròn (Đạ M'Rong), xã Lộc Nam. Đó là những cố gắng bước đầu về mặt xây dựng kinh tế của nhân dân các dân tộc anh em trong toàn tỉnh dưới chế độ mới. Song song với mặt trận kinh tế, việc nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của đồng bào các dân tộc ít người đã được các cấp ủy hết sức chú ý. Các đội " ánh sáng văn hoá" (65) đã đi đến các xã, ấp xa xôi vùng dân tộc để phát động phong trào vệ sinh phòng bệnh và tổ chức các lớp bổ túc văn hoá nhân dân. Phong trào đó đã phát triển mạnh mẽ ở các xã: Bảo Thuận, Đinh Trang Thượng, Huyện Di Linh; xã Đạ Tẻ, N'thôn Hạ, Đầm Ròn thuộc các huyện Bảo Lộc và Đức Trọng v.v... Với phong trào cách mạng sôi nổi đó của đồng bào các dân tộc, ngày 15.8.1978, tỉnh Lâm Đồng đã căn bản xóa xong nạn mù chữ... Để nâng cao hơn nữa trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật trong nhân dân, hệ thống các trường trung học, tiểu học, trường mẫu giáo ở hầu khắp các xã trong tỉnh đã được xây dựng và củng cố. Trên 13.000 các cháu nhỏ đã được cắp sách tới trường, trong số đó có trên 1.500 em dân tộc... Trên đà phát triển đó các phong trào cách mạng, đời sống về mọi mặt của đồng bào các dân tộc dần dần được cải thiện. Với truyền thống đấu tranh cách mạng lâu đời, nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ vừa qua, đã làm cho mối tình đoàn kết giữa đồng bào các dân tộc anh em giữa Kinh và Thượng ngày một thêm gắn bó. Kinh dựa vào Thượng, Thượng dựa vào Kinh với một tinh thần mới, tinh thần đoàn kết tương trợ và bình đẳng thật sự. Đó là quá trình hòa hợp dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. NGUYỄN VĂN DIỆU
CHÚ THÍCH (33) Nay thuộc huyện Di Linh thuộc vùng dân tộc Kơho. (34) Trích Cương lĩnh Đảng Cộng Sản Đông Dương năm 1930. (35) Đèo Đạ M're, nay thuộc huyện Bảo Lộc.
(40) Nghị quyết 15 của Trung ương vào tháng 1-1959. (41) Đội công tác này do đồng chí Nguyễn Xuân cảnh (tức Tám Cảnh) phụ trách. (43) Đội công tác này do đồng chí Phạm thuần, tức Chín Cán phụ trách từ hướng Đắc Lắc tiến sang. (44) Đội công tác này do đồng chí Hồng Sơn phụ trách, Xứ ủy Nam Bộ chỉ đạo. (45) "Cát Tiên" tên này do ta đặt trong thời kháng chiến. (50) Đồng chí Ma Pu lúc đó được bầu làm Phó chủ tịch Mặt trận tỉnh. (51) Đồng chí Ma Đen người dân tộc nay là huyện đội trưởng huyện Đạ Huoai. (54) Tân Rai : Căn cứ biệt kích người Thượng do Mỹ đào tạo và chỉ huy ở Lâm Đồng cũ. (56) Thuộc vùng Đầm Ròn, huyện Lạc Dương. (61) K'Kha, du kích Bảo Tuân, anh thường nói "Tôi cầu mong trực tháng Mỹ đến để đánh tiếp". (62) K'Mèo, du kích Bảo Tuân, người Raglai. (63) Theo tài liệu của Ban tổng kết chiến tranh tỉnh đội Lâm Đồng. (64) Đạ Đờn thuộc vùng Kơho ở Đức Trọng.
|
|||||
Nội dung chính | Trang trước | Mục lục | Trang sau |