Nội dung chính Trang trước Mục lục Trang sau  

ông nghiệp là một vấn đề đang được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Nghiên cứu nông nghiệp dưới góc độ dân tộc học vừa góp phần tìm hiểu hạ tầng cơ sở của một xã hội, vừa phục vụ cho công cuộc cải tạo nền sản xuất nhỏ đang tồn tại ở nông thôn miền núi hiện nay.

Bài này giới hạn vào vấn đề trồng trọt nhằm nêu lên những nét cổ truyền cùng những biến đổi của hoạt động kinh tế này trong xã hội người Mạ từ khi có sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phương Tây cho đến những năm gần đây nhất.

I- CÁC LOẠI HÌNH TRỒNG TRỌT CỦA NGƯỜI MẠ

Người Mạ canh tác và trồng trọt theo các hình thức: rẫy, ruộng nước, vườn, chuyên canh trà.

Mỗi loại hình canh tác như trên đều có một mức độ phổ biến và vai trò khác nhau.

Rẫy:

Rẫy là đất trồng trọt trên sườn đồi núi được tạo thành do phương thức phát cây, đốt rừng. Người Mạ thường phân biệt hai loại rẫy: rẫy mới và rẫy cũ. Ở cao nguyên Bảo Lộc - rẫy năm đầu người Mạ gọi là rẫy mới (mdrih), nếu tiếp tục canh tác tiếp theo năm thứ hai gọi là rẫy cũ (mpuh). Cả hai loại rẫy này đều có tên chung là "mir". Kỹ thuật và tập quán sản xuất của loại rẫy "mdrih" và "mpuh" không có gì khác nhau (73).

Rẫy là loại hình trồng trọt quan trọng nhất trong xã hội người Mạ. Cho đến thời gian gần đây, trong phần lớn các làng rẫy cung cấp lương thực và thực phẩm cho người Mạ.

Trong các làng, mọi công việc sản xuất đều có liên quan chặt chẽ với nghề làm rẫy. Ví dụ như nghề rèn lệ thuộc vào nghề rẫy ở chỗ người ta chỉ rèn vào buổi chiều sau khi đi làm rẫy về, hoặc vào những ngày nghỉ xen kẽ trong thời gian làm rẫy. Sự lệ thuộc còn biểu hiện ở chỗ thời điểm rèn các công cụ lao động - sản phẩm chính của nghề rèn tại đây - thường gắn với nhu cầu của công việc đang cần thiết. Chẳng hạn, người ta rèn rìu vào lúc đốn cây, chà gạt vào lúc phát và dọn rẫy v.v...

Vùng người Mạ cư trú có những điều kiện thiên nhiên rất thuận lợi cho nghề rẫy: rừng nhiều và mưa nhiều. Rừng nhiều nên mỗi làng có một diện tích canh tác lớn để xoay vòng chu kỳ rẫy. Nhờ vậy mà rẫy được để hóa khá lâu để cây rừng hồi sinh. Lượng nước mưa hàng năm khá lớn (từ 2.800 đến 3.000m) có tác dụng làm cho rừng tái sinh mau chóng.

Hàng năm mỗi người Mạ cần 1/2 hécta rừng để làm rẫy: số diện tích này cung cấp cho họ mỗi năm 800kg lúa hay 500 kg gạo(74). Vì chu kỳ hưu canh rừng bình quân là 16 năm, rẫy lại làm năm một, nên mỗi người phải có sẵn 8 hécta rừng để xoay vòng canh tác. Với một yêu cầu đất canh tác cao như thế, nói chung môi trường sinh sống của người Mạ trong quá khứ vẫn có thể đáp ứng cho họ được, vì tính ra bình quân mỗi người có được 10 hecta đất canh tác (diện tích toàn vùng Mạ ước lượng là 6.000km2, trừ đi một nửa không phải đất làm rẫy, còn lại 3.000 km2 hay 300.000 ha phân phối cho số dân lúc đó là 30.000 người) (75). Ví dụ: Làng B?Rđe, nay thuộc xã Lộc Bắc, vào năm 1962 có 154 người, hưởng một diện tích đất làm rẫy là khoảng 2.000ha, mỗi năm cả làng canh tác 70 - 75ha. Theo nhịp độ này, một miếng rẫy được để hóa từ 20 đến 30, một thời gian quá đủ cho rừng và đất phục hồi độ phì nhiêu. Hoặc một khu vực thuộc thung lũng trung và hạ lưu sông Đạ Huoai và thung lũng hạ lưu sông Đạ Teh gồm có 20 làng với 1.600 người Mạ, sử dụng một diện tích đất làm rẫy là 18.500 ha.

Tính ra mỗi người có sẵn 10 héta rừng để làm rẫy từng năm một, và thời gian để hóa mỗi rẫy là 20 năm.

Như thế, với điều kiện thiên nhiên như trên, người Mạ có thể sinh sống bằng nghề rẫy mà môi trường sống quanh họ vẫn được hồi sinh.

Sau giải phóng miền Nam, rẫy vẫn còn một vị trí quan trọng đối với người Mạ. Nhìn vào từng xã của huyện Bảo Lộc, ta thấy ở phần lớn các xã có người Mạ cư trú, diện tích lúa rẫy vẫn còn nhiều hơn diện tích lúa nước. Xã Lộc Lâm, năm 1977, có 95 ha lúa rẫy so với 71 ha lúa nước. Xã Lộc Thắng có 234 ha lúa rẫy so với 103 ha lúa nước. Xã Lộc Phú có 314 ha lúa rẫy so với 21 ha lúa nước. Bên cạnh đó có một xã chỉ trồng lúa rẫy mà chưa trồng lúa nước. Đó là xã Lộc Bắc, nơi cư trú của gần 2.000 người Mạ và năm 1977, người Mạ ở xã này khai thác hơn 300 ha rừng để trồng lúa nước.

Ruộng nước:

Ở vùng Mạ có những vùng đất bằng và thấp không cây cối, bị ngập nước vào mùa mưa và có rừng xavan phát triển (savane) vào mùa nắng. Người Mạ gọi những địa thế tự nhiên này là Srê. Có nhiều Srê nằm rãi rác trong vùng Mạ, nhưng nhiều nhất và lớn nhất là các Srê ở khu vực thung lũng hạ lưu sông Đạ Đơng, chỗ giao lưu với các nhánh sông Đạ Rlai, Đạ Rmih, Đạ Lai và Đạ Teh. Khu vực này có các Srê như Srê Bon Gor, Srê Bon Rsi, Srê Bon Paang, Srê Nau, Puh Nau Kloong, Srê Đạ Lai, Srê Đạ Rmih v.v... Các Srê này là những địa thế tự nhiên có thể khai thác thành ruộng nước, và người Mạ cũng gọi những mảnh ruộng làm trên các nơi này là Srê.

Ruộng nước là một loại hình trồng trọt rất ít phổ biến ở vùng Mạ. Theo sự điều tra của chúng tôi, từ trước năm 1975 người Mạ ở các làng Jirai, Minh Rồng 2, Minh Rồng Srêkăng, nay thuộc xã Lộc Thắng cũng có làm ruộng nước với kỹ thuật còn thô sơ. Ngay cả ở những làng này, vai trò của ruộng nước cũng rất nhỏ bé so với vai trò của rẫy. Người Mạ ở làng Minh Rồng Srêkăng nói rằng trước đây trong ba năm họ mới làm ruộng một lần vì phương pháp làm ruộng của họ rất tốn công và họ vẫn thích làm rẫy hơn.

Từ năm 1975 đến nay, với chính sách định canh định cư, chính quyền địa phương đã giúp đỡ đồng bào Mạ rời rừng sâu hẻo lánh đi tìm những vùng đất mới thuận lợi để ổn định đời sống. Chẳng hạn 22 làng sống lẻ tẻ trên núi cao gồm trên 300 hộ với 1.000 người Mạ đã về quây quần dọc sông Đạ Tẻh lập nên xã Đạ Tẻ. Hoặc vào mùa xuân năm 1977, 171 hộ gồm 948 người ở các làng thuộc hai xã 4 và 6 cũ đã về đoàn tụ tại vùng trảng Singơ lập nên xã Lộc Lâm.

Song song với công tác định cư, chính quyền đã giúp đồng bào cải tạo đất hoang thành ruộng nước, có nơi đã có hệ thống thủy lợi và làm hai vụ một năm. Nhìn qua một số xã có người Mạ cư trú, ta thấy xã Lộc Lâm đã cải tạo trảng Singơ thành 70 ha ruộng nước. Xã Lộc Trung năm 1977 đã làm 208 ha ruộng nước, trong đó 50 ha là vụ đông xuân. Số diện tích này đã vượt gấp đôi diện tích lúa rẫy cùng năm là 102 ha. Xã Lộc Thắng năm 1977 đã trồng 116 ha lúa mùa và 22 ha lúa đông xuân, trong đó diện tích lúa của người Mạ là 103 ha. Xã này đã hoàn thành 1.000 mét mương tưới tiêu và một công trình thủy nông có bể chứa bốn triệu rưỡi mét khối nước, đủ tưới cho hàng trăm hécta ruộng trong mùa nắng hạn.

Vườn:

Trong vườn nhà, người Mạ thường trồng thuốc lá, mít, đu đủ, chuối, mía v.v... Nhiều loại cây trên được trồng chung với nhau trong một mảnh vườn, nhưng thỉnh thoảng cũng có những mảnh vườn chỉ trồng thuốc lá.

Hình thức trồng trọt này xuất hiện ở mọi làng, nhưng quy mô còn rất nhỏ vì đất trồng hẹp và số lượng cây trồng ít. Nhiều nơi cây trồng vườn èo uột và lưa thưa, phần nào cũng vì hàng rào sơ sài nên các gia súc nuôi theo lối thả rong vào phá phách. Kỹ thuật canh tác còn thô sơ vì chưa dùng phân bón và không bỏ công chăm sóc bao nhiêu.

Ở một vài nơi, quy mô trồng trọt phần nào có lớn hơn các nơi khác và đã trồng thêm cây bo bo (Đạ Tẻ), dâu tằm (Lộc Thắng) nhưng nói chung loại hình vườn giữ một vai trò rất thứ yếu trong đời sống kinh tế của người Mạ (76)...

Chuyên canh trà:

Tại những làng người Mạ gần các đồn điền trà của tư bản Pháp trước đấy, đã xuất hiện một số yếu tố mới. Ở đấy người Mạ đã thoát ly công việc làm rẫy để trở thành công nhân làm việc thường xuyên trong các đồn điền trà, cà phê của tư sản Pháp và Việt. Họ làm nghề hái trà, cà phê, hoặc lái máy cày, lái xe ô tô, chăm sóc trà, làm nhân viên thống kê v.v... Bên cạnh loại công nhân thường xuyên còn có một số khác làm công nhân theo mùa vụ vào những tháng rảnh rỗi khi đã kết thúc công việc ruộng, rẫy.

Đồng thời với những biến đổi về sinh hoạt kinh tế như trên, đã xuất hiện nghề chuyên canh trà theo lối cá thể. Tiêu biểu nhất cho hoạt động kinh tế mới này là các làng người Mạ ở xã Lộc Thắng. Những số liệu sau đây về tình hình sản xuất trà tại xã này năm 1978 có thể phản ảnh phần nào tình hình trên. Năm 1978 toàn xã có 165 hộ trồng trà theo lối cá thể, trong đó có 142 hộ người Mạ và 23 hộ người Kinh. So với tổng số hộ người Mạ trong xã là 206 hộ, ta thấy gần 3/4 hộ có trồng trà với một mức độ khá phổ biến. Tổng số diện tích trà của người Mạ là 114,95 ha, và của người Kinh là 21,50 ha. Làng trồng nhiều nhất là Minh Rồng Srékăng (với trên 50 hộ người Mạ và chỉ có 3 hộ người Kinh), chiếm gần một nửa diện tích toàn xã. Làng đứng thứ nhì có diện tích trà cá thể là làng Jirai và thứ ba là B?Đạ.

Số diện tích trà nói trên được phân phối như sau: 49 hộ có từ 1 đến 2 ha, 4 hộ có từ 2 đến 3 ha, một hộ có trên 5 ha. Đại đa số các hộ còn lại có diện tích dưới 1 ha, mà ít nhất là 1 sào.

Như thế, ở một số làng nhất định ngành trồng trà có một vai trò quan trọng hơn ruộng nước. Nhưng đó chỉ là một ít làng trong toàn xã hội Mạ và ngay tại những làng này, rẫy vẫn giữ vai trò chủ đạo. Diện tích rẫy gấp đôi diện tích trà. Các tổ vần đổi công làm trà chưa tách khỏi các tổ vần đổi công rẫy và ruộng. Nhưng điều quan trọng hơn cả là các hộ trồng trà chưa thể chỉ sống bằng nghề này mà phải bằng nghề rẫy là chính. Tuyệt đại đa số các hộ chỉ có từ 2 ha trở xuống, phần nhiều là dưới 1 ha. Ngoài ra, đồng bào không có máy móc chế biến nên phải bán trà tươi ra thị trường.

II- KỸ THUẬT VÀ TẬP QUÁN TRỒNG TRỌT

Ruộng nước:

Về hình thái sở hữu, ruộng nước nằm trong địa phận canh tác của làng và trên nguyên tắc làng là sở hữu chủ cao nhất. Quyền sở hữu cao nhất của làng chỉ là hình thức, còn trên thực tế quyền sở hữu thuộc về từng nhóm gia đình có quan hệ huyết tộc gần gũi với nhau, khoảng hai ba đời. Từng nhóm gia đình có chung một khu ruộng và chia ra từng mảnh để các gia đình canh tác theo lối cha truyền con nối. Gia đình không có quyền bán hay chuyển nhượng cho người khác ngoài nhóm của mình. Quyền này thuộc về nhóm gia đình.

Về kỹ thuật canh tác, đầu tiên người ta ngăn nước ở sông suối và dẫn vào ruộng để làm mềm đất. Sau đó, cuốc đất lên và ban ra cho bằng. Công cụ để ban đất là một tấm ván nặng dài hai thước, hai đầu có đóng đinh để cột hai dây kéo. Hai người vừa đi tới vừa kéo tấm ván. Giữa thân tấm ván có gắn một cái cây để một người đi sau cầm điều chỉnh đưa tấm ván lên cao hoặc xuống thấp trên mặt ruộng. Dụng cụ ban đất này gọi là " Lơ pàn hoài ụ". Người Chil ở thôn Đạ Me xã Nthôn Hạ (huyện Đức Trọng) cũng có cái ban đất trên ruộng do người kéo, chỉ khác là dụng cụ của họ có răng bằng gỗ giống như cái bừa.

Sau khi ban đất cho bằng, người ta tháo nước ra và để trong 15, 16 ngày cho ruộng khô. Khi ruộng vừa khô, mỗi người đàn ông cầm hai cậy gậy (Rmul) vừa đi tới vừa chọc lỗ xuống ruộng. Đằng sau người này có hai người đàn bà đi theo bỏ lúa vào lỗ rồi dùng cái "kao" lấp đất lại. Đối với lúa tẻ, người ta chỉ dẫn nước vào ruộng trở lại khi nào trời nắng làm cho ruộng quá khô. Đối với lúa nếp, không cần dẫn nước vào nữa. Ruộng ở đây không dùng phân bón.

Như thế, công cụ sản xuất và kỹ thuật canh tác ruộng nước ở đây còn rất thô sơ và giữ lại nhiều dấu vết của phương pháp rẫy. Cái "kao" và đặc biệt cây gậy chọc lỗ là những công cụ đặc thù của phương pháp rẫy. Cách chọc lỗ và kiểu nhờ nước mưa để tưới cho lúa cũng là những nét đặc trưng của rẫy.

Rẫy "mir":

Đối với người Mạ, đất rẫy là thuộc quyền sở hữu của công xã làng, tức tài sản chung của mọi người. Do đó, ai cũng có quyền canh tác và hưởng sản phẩm làm ra. Nhưng, người chủ làng là đại diện cho mọi người trong làng để quản lý vùng đất rừng làm rẫy. Người chủ làng là người cao tuổi và có uy tín đối với dân làng, họ có nhiệm vụ bảo vệ và quản lý đất đai của làng nhưng không có đặc quyền nào về mặt vật chất. Vì vậy, người chủ làng đồng thời là người chủ rừng. Trong thực tế, quyền chủ rừng chỉ có ý nghĩa về mặt tinh thần và có tính chất tượng trưng. Đó là một đặc điểm chung của xã hội người Mạ, và mỗi nơi người đại diện này được gọi bằng một tên khác, như "Chau kuang bon", "Chau pái", "Tom u", "Tom bri" v.v...

Bên cạnh đó còn một nhóm vật có liên hệ đến vấn đề trồng trọt là "Chau át pu bri", có nghĩa là "người cầm rừng". Đây là người hiểu biết nhiều nhất về kỹ thuật trồng trọt, lãnh trách nhiệm chỉ đạo việc canh tác trong làng. Mỗi làng có một hoặc hai người.

Trong quá trình lịch sử, mỗi khu vực cư trú có những điều kiện về tự nhiên và xã hội khác nhau nên sự phân hóa bước đầu về chế độ sở hữu nói trên ở các nơi đã diễn ra theo những chiều hướng không hoàn toàn giống nhau. Sự khác nhau này phần nào làm cho tập quán chọn rừng - khâu đầu tiên trong một chu trình rẫy-trở nên khác nhau từ nơi này đến nơi khác: Dĩ nhiên điều kiện tự nhiên mỗi nơi cũng góp phần tạo nên sự khác biệt này.

Tại những làng ở cao nguyên Bảo Lộc, nơi mà mặt bằng cao nguyên tương đối bằng phẳng vì chỉ bị cắt bởi những đồi thấp lượn sóng, người Mạ có tập quán cả làng cùng chọn chung một đám ruộng rộng. Mặt khác, diện tích canh tác ở đây có phần bị hạn chế do rừng thưa nhiều và do các đồn điền của Pháp lấn chiếm; quyền quản lý đất đai thống nhất của làng vì thế bị phân hoá vào tay những gia đình có uy tín trong làng (dĩ nhiên các gia đình chủ đất nay cũng vẫn còn hưởng quyền lợi về tinh thần là chủ yếu). Vì vậy sau khi chọn rừng, chủ rừng đứng ra chia khu rừng rộng nói trên thành từng mảnh cho từng gia đình. Để cho công bằng mỗi gia đình đều có một phần ở đỉnh đồi, một phần ở sườn đồi, và một phần dưới chân đồi, bởi vì đất đai ở những nơi này có giá trị tốt xấu khác nhau.

Trong khi đó ở phần lớn xứ Mạ còn lại nằm dọc theo sông Đạ Đơng và các phụ lưu tả ngạn của con người sống này, mặt bằng của đất canh tác bị cắt nhỏ bởi các dãy núi thấp có sườn dốc mà người Mạ gọi là "Đang", nên rẫy của làng không thể ở một chỗ được. Diện tích canh tác ở vùng này không bị các hạn chế nói trên làm thu hẹp lại, do đó chế độ quản lý rừng chưa phân hóa vào tay những gia đình. Điều này biểu hiện ở chỗ người Mạ tại đây có tập quán tự đi tìm rừng cho gia đình mình mà không có ai đứng ra quy định. Đến ngày lễ chọn rừng "Yuin Bri", cả làng kéo nhau đến nhà người chủ rừng, đem theo gà, vịt, rượu. Tại đây, người ta cúng kiếng và chuyện trò, bàn bạc với nhau. Ngày hôm sau, người đàn ông chủ gia đình vác chà gạt lên vai đi tìm cho gia đình mình một mảnh riêng.

Người Mạ chọn đất làm rẫy ở những khu rừng thứ sinh (sar) và không chọn đất rừng thưa (lac) hay rừng già (rlau). "Sar" là rừng thứ sinh, hoặc rừng chồi hoặc rừng trẻ. Rừng già nguyên sinh "rlau" ở vị trí trên sườn núi cao, cây cối xanh thẩm, rừng "sar" thấp hơn và có màu xanh nhạt. Đi về xứ Mạ, chúng ta thường thấy trong khu rừng "sar" để làm rẫy vẫn có những khu rừng "rlau" nhỏ bé phân bố ở những vị trí đặc biệt. Đấy là những nơi người Mạ cố ý bảo tồn để dành riêng cho thần linh. Những đám rừng này được gọi là "Krong", tức rừng thiêng, nơi ngự trị của các thần linh. Họ muốn giữ nó y nguyên như thời khai thiên lập địa, khi thần K?Bông tạo ra cây cối trên xứ sở của họ.

Công việc chọn rừng nói trên và phát rừng sau đó thường diễn ra trong thời gian từ giữa tháng 1 đến đầu tháng 2 dương lịch. Khi cây đã khô, người ta đốt vào khoảng tháng 3. Theo tập quán, không có một lễ nghi nào trước khi phát rừng, nhưng trước khi đốt phải cúng thần lửa, gọi là "Lơ Yàng Us". Họ khấn với thần rằng "đốt cho sạch, cho tốt, đừng để tôi phải dọn". Nhưng thực tế dọn rẫy là một khâu không thể thiếu trong các bước làm rẫy. Việc này diễn ra vào khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4. Đàn ông cầm cái chà gạt chặt những cành cây chưa cháy thành từng đoạn rồi dồn lại từng đống. Đàn bà cầm cái "kao" chặt ngắn những nhánh cây nhỏ và ném vào những đống đó. Trẻ em cũng ra rẫy chơi và tham gia dọn dẹp những cành cây nhỏ hơn nằm rãi rác trên rẫy. Đồng bào tiến hành dọn dẹp như thế từ sáng sớm và đến trưa thì đốt. Giữa buổi trưa nắng gắt vào cuối mùa khô, các đống lửa đua nhau cháy hừng hực khiến cho không khí trên rẫy trở nên oi bức khó chịu vô cùng. Nhưng đồng bào vẫn tiếp tục làm, đầu không nón, mình không áo, nhiều nơi đàn ông chỉ mặc cái khố và đàn bà chỉ mặc cái váy.

Đến đây mặt rẫy còn lại một màu đen của lớp tro cũ trong lần đốt đầu tiên và lốm đốm từng đống tro trắng của lần đốt dọn, trên đó lởm chởm những gốc cây còn để lại cho rừng làm chỗ tái sinh sau này. Lúc đó mọi sự đã chuẩn bị xong để đón chờ hạt lúa tỉa xuống khi mưa đã đến đều đặn.

"Mir" của người Mạ còn là một loạt rẫy hỗn hợp cây trồng. Rẫy trồng lúa là chính, nhưng xen kẽ với lúa còn nhiều loại cây khác như bắp, bầu, bí, mướp, dưa, ớt, thuốc lá, bông vải v.v... Lúa sớm được trồng trên rẫy riêng nhưng cũng có một số cây vừa kê xen kẽ. Lúa nếp được trồng thành khoảnh trên rẫy lúa mẹ.

Trong các loại cây trên, bắp được trồng trước tiên, vào khoảng đầu tháng 4. Người ta dùng cái "kao" đào lỗ cách nhau khoảng một thước rưỡi, bỏ vào mỗi lỗ ba bốn hạt rồi lấp đất lại.

Lúa mẹ, cây trồng chính của Mir, được tỉa vào khoảng giữa tháng 4. Thời gian này ở các nơi có xê xích nhau chút đỉnh. Người Mạ ở khu vực thung lũng phía tây tỉa hạt sớm hơn người Mạ ở cao nguyên Bảo Lộc chừng nửa tháng. Vì thế, vào đầu tháng 5 khi đi từ phía tây ra phía đông, chúng ta rời những thung lũng xanh màu Mạ và bắp để đến thấy người Mạ ở cao nguyên còn đang bận tỉa hạt. Công việc tỉa hạt bắt đầu sau khi làm lễ "Lơ Yang Tuỵt Koi". Một người đàn ông hai tay cầm hai cây gậy vừa đi vừa chọc lỗ, có ba bốn người đi sau tra hạt, chủ yếu là đàn bà. Tay trái cầm một đoạn cây ngắn hoặc cái "kao" trở cán xuống đất, vừa đi tới vừa chống xuống đất để lấy thế. Tay phải lấy lúa giống đựng trong một cái gùi nhỏ gọi là "khiu" đeo bên hông phải bỏ vào lỗ nhưng không lấp đất lại.

Cây gậy chọc lỗ (rmul) dài khoảng 3 thước và đường kính khoảng 4 phân, được bọc sắt ở đầu nhọn và dùng đến khi sắt hư mới bỏ. Các công cụ lao động khác cũng thế. Cái rìu (kol sùng): dùng để đốn cây. Cái chà gạt (wioh) dùng vào việc phát rừng và dọn rẫy. Hai công cụ này do đàn ông sử dụng. Cái "kao" thường do đàn bà sử dụng, dùng để làm cỏ là chính. Đó là tất cả công cụ lao động trong nghề rẫy của người Mạ. Ở những nơi gặt lúa nếp thay vì dùng tay để suốt thì có thêm cái liềm (moh).

Từ khi tỉa hạt xong đến khi thu hoạch là thời gian chăm sóc và bảo vệ rẫy. Trước đây nhiều nơi trong vùng Mạ có tập quán dọn nhà ra ở ngoài rẫy (om mir) trong suốt thời gian cây lúa phát triển. Họ đem theo chiêng, ché, công cụ sản xuất, gia súc v.v... và ở cho đến khi xong mùa gặt mới trở về căn nhà dài trong làng. Tại rẫy người ta làm nhiều cái chòi cao cẳng gọi là "kọp", và một cái nhà thấp cẳng gọi là "rnú". "Rnú" là chỗ để ở, còn các "kọp" là nơi người ta đến ngồi đuổi chim và khỉ vào ban ngày. Dọn nhà ra rẫy là một tập quán trước đây khá phổ biến ở các làng thuộc xã Đạ Tẻ, Lộc Bắc ngày nay.

Trong thời gian lúa lớn và chín, nhiều bất trắc có thể xảy ra làm mất mùa nên mỗi bước cày lúa lớn lên là một lần được chào mừng hoặc cầu xin bằng một lễ cúng thần. Khi lúa lớn được nửa thước, người ta làm lễ "Yu Tam Nam" (có nơi gọi là Yu tam Sơnơm). Từng gia đình cúng riêng tại rẫy của mình với đồ cúng gồm rượu và gà. Lễ này có mục đích cầu cho lúa khỏi bị hạn hán hoặc bọ rầy phá, do đó năm nào cũng phải cúng dù chưa thấy nguy cơ nào cả.

Khi lúa vừa trổ bông, người ta chào mừng bằng một lễ lớn thứ nhì trong năm gọi là "Yu Rmul" (hoặc Yu Đụng), cũng do từng gia đình cúng ở rẫy với đồ cúng nhiều hơn lễ trước vì có cả dê hoặc heo. Trong dịp này, mỗi gia đình làm một cây nêu gọi là "ỵu", tượng trưng cho nhà chứa lúa, cắm ở rẫy của mình. Khi mang lúa về kho, cây này được đem về cắm bên cạnh kho lúa. Lễ này cũng khá quan trọng vì đi kèm với nó là thời gian bảy ngày kiêng cữ không được đi làm ở rẫy hoặc sang làng khác.

Mùa thu hoạch lúa mẹ (koi me) và lúa nếp (mbar) được mở đầu bằng một lễ gọi là "Yu Tuyn Kách" hoặc "Yu Pas Koi" (77). Lúc này vào khoảng cuối tháng 10, hoặc đầu tháng 11 ở những nơi tỉa hạt muộn hơn. Lúa sớm (koi krông) đã được suốt vào tháng 7 vì thời gian trồng chỉ có 2 tháng, và bắp (ngơi) vào đầu tháng 7. Các loại cây bí (plây pul), bầu (plây lin), mướp (plây pùn) đã được hái lá vào tháng 6 và hái trái vào tháng 9. Nhưng có một loại cây thu hoạch sau khi đã suốt lúa mẹ, đó là bông vải.

Năng suất của "Mir" tùy thuộc loại đất hơn là loại giống. Tất cả các loại giống đều là giống địa phương, mang những tên như (koi me) "nhé, rhin, kal, blơ... (koi krông) wet, bít, lố, gỏ... (Mbar, yôr, ỳang, siên, đụi" v.v... Người Mạ không tính năng suất của "mir" theo diện tích (hecta) mà theo số gùi lúa thu được khi tỉa một gùi lúa giống. Khi tính như họ, ta thấy năng suất bình quân của mir khác nhau tùy từng loại đất.

Theo một tài liệu của Pháp, ở khu vực cao nguyên Bảo Lộc, nơi phần lớn là đất do đá badan phong hóa tạo thành một gùi giống tỉa xuống mir sẽ thu về được 40 gùi (một gùi "sah" khoảng 30 ký). Trong khi đó ở khu vực thung lũng phía tây, nơi người Mạ thường làm rẫy trên sườn các "Đăng" và trong thung lũng là những chỗ có cấu tạo đất bằng đá phiến phong hóa, một gùi giống sẽ thu về được 80 gùi. Nếu rẫy nằm trên đất bồi, số gùi thu được có thể đạt đến một trăm gùi.

Tuy nhiên nếu tính theo hecta, năng suất bình quân của mir ở toàn vùng Mạ đều ở mức chung là 1,6 tấn. Lý do là vì mật độ tỉa hạt, tức khoảng cách giữa các lỗ chọc xuống rẫy và số hạt giống trong mỗi lỗ, ở vùng đất phiến thấp hơn ở vùng đất badan và ở vùng đất bồi còn thấp hơn nữa. Trong khi ở đất badan người ta tỉa 40 kg giống trên 1 ha rẫy thì ở đất phiến tỉa 20 kg và trên đất bồi chỉ có 16 kg.

Năng suất của rẫy rất bấp bênh nên thay đổi từ mức tối thiểu 0,8 tấn đến mức tối đa 2,4 tấn ở vùng đất badan, từ 0,6 tấn đến 3 tấn ở vùng đất phiến và từ 1 tấn đến 3,5 tấn ở vùng đất bồi. Mức tối đa và tối thiểu này không bao gồm những trường hợp quá đặc biệt.

Về hình thức tương trợ trong sản xuất, từ lâu người Mạ làm rẫy theo lối tập thể vần đổi công mà họ gọi là "Tâm ốp luh" hay "Lợt luh" (Luh có nghĩa là nhóm, tập đoàn). Hình thức tổ chức đổi công khác nhau tuỳ khu vực. Ở cao nguyên Bảo Lộc, như tại các làng nay thuộc xã Lộc Thắng chẳng hạn, cả làng làm thành một tổ duy nhất, có thể là vì ở đây rẫy của làng cùng ở một chỗ trên một khu rừng rộng. Tại các làng Mạ thuộc khu vực thung lũng phía tây, có thể phần nào do điều kiện rẫy của làng nằm rải rác nên trong làng có nhiều tổ thành lập theo từng nhóm đồng tộc, cụ thể là từng nhà dài. Như thế ở đây nguyên tắc thành lập tổ dựa trên quan hệ huyết tộc. Hiện nay, bên cạnh nguyên tắc này còn có khá nhiều trường hợp một số hộ trong nhà dài này kết hợp với một số hộ trong nhà dài bên cạnh làm thành một tổ. Ở những nơi cả làng chỉ có một tổ nay cũng chia thành nhiều tổ.

Trong một chu trình rẫy, người ta làm chung với nhau ở hầu hết các khâu từ phát rừng, dọn rẫy, tỉa hạt, làm hàng rào, làm cỏ cho đến việc suốt lúa và mang về kho. Nguyên tắc vần công là cả tổ làm một ngày tại rẫy của một hộ tổ viên, qua ngày sau làm cho một hộ tổ viên khác, cứ thế tiến hành cho đến hết rồi trở lại từ đầu. Ngay cả việc mang lúa về kho cũng làm theo nguyên tắc này: nếu cả tổ mang một ngày mà chưa hết thì số lúa còn dư phải để lại ở rẫy chờ đến phiên mình vào một ngày khác. Khi tổ đến làm cho hộ nào, hộ ấy phải nấu canh cho cả tổ ăn bữa trưa. Không có canh thì cung cấp muối cũng được. Còn cơm do mỗi tổ viên tự đem theo.

Chu trình rẫy hàng năm kết thúc khi người ta mang lúa về kho và cử hành một lễ lớn nhất trong năm, mang ý nghĩa lễ tết gọi là "Yu Rhe", có nghĩa là "uống rượu trong rơm". Theo truyền thống, người Mạ ăn tết "Yu Rhu" trong bảy ngày, trong đó có một số ngày cúng thần. Các buổi cúng đều diễn ra ở kho thóc của mỗi nhà. Người ta quét dọn sạch sẽ nhà kho và bày rượu, cơm nếp, gà, dê, hoặc heo tùy theo khả năng vật chất và số lúa thu hoạch nhiều ít của từng hộ. Đây là dịp dân làng được ăn uống no say và vui chơi thỏa thích. Đi kèm theo lễ này cũng là thời gian bảy ngày kiêng cữ không được làm gì hoặc đi đâu cả. Hiện nay người Mạ ăn tết "Yu Rhe" ít ngày hơn và đã bỏ hẵn thời gian kiêng cữ. Về các lễ nông nghiệp khác kể trên, có nơi đã bỏ hết, có nơi chỉ còn giữ lại những lễ quan trọng như "Yu Tam Nam", "Yu Rmul".

Trên đây là một số vấn đề dân tộc học về nông nghiệp ở vùng người Mạ, qua đó chúng ta thấy ngoài một số kinh nghiệm qúi báu của đồng bào tích lũy từ cuộc đấu tranh lâu dài với thiên nhiên với những tập quán gắn liền với nền sản xuất lạc hậu, chỉ thích hợp với một đời sống thấp và tình trạng cư trú phân tán có từ lâu đời. Vì vậy điều cần thiết hiện nay là phải cải tạo tình trạng lạc hậu đó theo hướng xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mà bước đầu tiên có tầm quan trọng quyết định hiện đang diễn tiến tốt đẹp là tiến hành định canh định cư. Cùng với bước tiến cơ bản này, một bộ phận lao động người Mạ đang được chuyển sang các ngành lâm nghiệp, như tại xã Lộc Lâm tính đến đầu năm 1978 đã có 300 trong số 500 lao động chính của xã làm nghề tu bổ rừng và chích nhựa thông. Theo đà phát triển này, dân tộc Mạ sẽ có những điều kiện cơ bản để tiến nhanh hơn trên con đường xây dựng cuộc sống mới hiện nay.

PHAN NGỌC CHIẾN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHÚ THÍCH

(73) Ở những rẫy (mir) lúa gần láng sau khi gặt xong, người Mạ đốt cỏ và trồng mì (blang). Rẫy trồng mì gọi là "mpuh blang".

(74) Theo lời người Mạ ở xã Lộc Bắc, mỗi người hàng năm có 30 gùi lúa mới đủ ăn. Sau khi lấy chân dậm cho hạt rời khỏi cuống bông, số lượng gùi này còn lại 20 gùi. Mỗi gùi cân nặng khoảng 30 kg. Do đó, mỗi năm họ cần khoảng 600 kg lúa hay 375 kg gạo. Nếu lấy thu hoạch bình quân mỗi hecta rẫy là 1.600kg, số 600 kg lúa này cần khoảng 0,40 ha rừng để canh tác.

(75) J.Boulbet.

(76) Trong những năm gần đây nhất (1970-1982), loại hình vườn tược rất được phát triển ở người Kơho vùng Di Linh và Đức Trọng. ở đây, kinh tế vườn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống người Kơho.

(77) Có làng gọi là "Yu Tuyn Kách", nhưng có làng gọi lễ này là "Yu Pas Koi".

 

  Nội dung chính Trang trước Mục lục Trang sau