Nội dung chính Trang trước Mục lục Trang sau    

MỘT VÀI KÝ VÃNG VỀ HỘI NGHỊ ĐÀ LẠT

êm mồng 9 tháng 3 năm l945, chế độ thuộc địa Pháp bị hủy. Ngày 15 tháng 8, đế quốc quân phiệt Nhật đầu hàng. Từ khi chính quyền thực dân tan, dân Việt thấy rằng tương lai mình sẽ do các cường quốc chiến thắng đã đành, nhưng nhất là do thái độ và năng lực của mình trước. Vì vậy, tuy trong nội bộ có chính biến, nhưng quốc dân đều một lòng siết chặt chung quanh những kẻ cầm quyền, để đợi những biến cố tày trời sắp dồn dập tới.

Tuy chính quyền Pháp mới loan báo sắp phái tướng Leclerc sang tái phục và đô đốc D’Argenlieu sang quản trị Đông Dương, nhưng dân Việt vẫn mong rằng Mĩ và Trung sẽ cản chế độ thực dân tái lập. Phải đợi đến sau ngày 12 tháng 9, quân Anh vũ trang người Pháp ở Sài Gòn, rồi sau ngày 21, tàu Anh chở quân viễn chinh Pháp đổ bộ lên đất Nam Bộ, thì dân Việt mới thấy cái họa mất nước lần thứ hai. Ngoài ra, một số người vong bản hoặc bị phỉnh phờ theo hùa lập ra nước Nam Kỳ tự trị, nhân dân đã quyết chống lại nạn ngoại xâm, tuy trong nội bộ có sự đảng tranh, nó đã đem lại nhiều thảm kịch tai hại. Ngày 19 tháng 11, Mặt trận Việt Minh, đảng Quốc Dân và nhóm Đồng Minh cam kết liên hiệp để đối phó với thời cơ.

Trong khi ấy, quân đội viễn chinh và chính phủ Pháp đã thi hành những giai đoạn từng thấy hơn sáu mươi năm về trước để chiếm đoạt toàn lãnh thổ Việt Nam: chiếm Nam phần, dỗ Miên, Lào, điều đình với Trung Quốc để tìm cớ đem quân ra Bắc. Ngày 28 tháng 2 năm 1946, thỏa hiệp Trung - Pháp được kí, nhận quân đội Pháp ra Bắc thế quân đội Trung, đặt Hải Phòng làm hải cảng tự do cho hàng hóa Trung Quốc. Bấy giờ những hiện tượng Jean Dupuis, Francis Garnier ngày xưa lù lù tái hiện. Không đủ vũ lực chống lại, kẻ cầm quyền chỉ có cách điều đình. Với sự đoàn kết tất cả nhân dân thì may gì sẽ giữ được những điều kiện tối thiểu của một nước.

Sau khi Nhật hoàng chịu đầu hàng, quốc trưởng Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim đánh điện tín cho quốc trưởng bốn nước có thể liên quan đến vận mệnh Việt Nam, bày tỏ thái độ toàn quốc sẽ cương quyết chống thực dân Pháp trở lại chinh phục nước mình. Tuy lời kêu gọi ấy không có một tiếng trỗi nào, nhưng muốn tỏ sự toàn dân đoàn kết, chính phủ đã mời cựu hoàng ra Hà Nội làm cố vấn, rồi lại để đi sang Trung Quốc. Cũng vì lẽ ấy, ngày mồng 6 tháng giêng (1946), toàn dân bầu cử quốc hội, có 70 ghế cho các nhóm Quốc dân và Đồng minh. Ngày mồng 2 tháng 3, họp hội nghị toàn quốc, và ngày hôm sau thành lập chính phủ chính thức "Đoàn kết kháng chiến" có Hồ Chí Minh chủ tịch, Nguyễn Hải Thần phó chủ tịch, Huỳnh Thúc Kháng bộ trưởng Nội vụ, Nguyễn Tường Tam bộ trưởng bộ Ngoại giao, và Phan Anh bộ trưởng bộ Quốc phòng. Tuy thực lực vũ trang phần lớn trong tay quân trưởng Võ Nguyên Giáp, nhưng sự thành lập một chính phủ dung hòa mọi xu hướng chính trị đã tăng uy thế của vị chủ tịch đang điều đình rất gắt gao với phái viên Pháp là Sainteny. Chủ soái quân đội viễn chinh Pháp, tướng Leclerc muốn đổ bộ gấp rút lên đất Bắc, đã ép chính nhân dân Pháp phải nhận phần tối thiểu: tên nước Việt Nam và phẩm giá tự do.

Ngày mồng 6 tháng 3, Hồ Chí Minh và Sainteny kí một hiệp ước giữa Việt Nam và Pháp, mang xưng hiệu Hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3. Hai bên giao hẹn rằng:

"1- Chính phủ Pháp nhìn nhận nước Cộng hòa Việt Nam là một nước tự do có chính phủ riêng, có quốc hội riêng, có quân đội riêng và có tài chánh riêng, nhập phần Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp. Về điều thống nhất ba "kỳ", thì chính phủ Pháp cam đoan sẽ chấp nhận sự quyết định của những dân tộc sẽ được trưng cầu ý kiến.

2.- Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẵn sàng đón một cách thân thiện quân đội Pháp, khi, theo đúng những liên hiệp quốc tế, quân đội này thay thế quân đội Trung Hoa. Một khế ước phụ tiếp vào Hiệp định sơ bộ này sẽ định những cách thức theo đó những tác động thay thế sẽ cử hành.

3.- Những điều khoản đề xuất trên đây sẽ được thi hành lập tức. Liền sau khi trao đổi chữ kí, mỗi bên giao kết sẽ thi thố những sự cần thiết để ngừng chiến lập tức, để cầm bộ đội mình đóng tại chỗ hiện có, để gây nên bầu không khí thuận lợi, cần thiết cho sự mở lập tức những cuộc đàm phán thân thiện và chân thành. Những cuộc đàm phán ấy hướng nhất về:

a) Những liên lạc ngoại giao giữa Việt Nam và các nước ngoài,

b) Điều lệ tương lai của Liên bang Đông Dương,

c) Quyền lợi kinh tế và văn hóa Pháp tại Việt Nam.

Hà Nội, hoặc Sài Gòn, hoặc Paris có thể được chọn làm nơi trụ sở cho cuộc đàm phán."

Khế ước phụ

"Giữa hai bên kí kết đã chỉ định trong Hiệp ước sơ bộ, đã giao hẹn những điều sau:

1.- Binh lực thay thế sẽ gồm:

a. Một vạn người Việt Nam, với cán bộ Việt Nam, dưới quyền những binh quyền Việt Nam.

b. Mười lăm ngàn người Pháp, kể cả binh lực Pháp hiện ở trên lãnh thổ Việt Nam ở phía bắc vĩ tuyến 16. Những phần tử ấy phải chỉ gồm người Pháp gốc chính quốc, trừ ra những bộ đội canh giữ tù binh Nhật.

"Toàn bộ các binh lực ấy sẽ đặt dưới Thượng đẳng chỉ huy Pháp có đại biểu Việt Nam hỗ trợ. Sự tiến, sự đóng và sự dùng những binh lực ấy sẽ định trong một cuộc đàm phán tham mưu giữa những đại diện chỉ huy của Pháp và Việt Nam; cuộc đàm phán ấy sẽ nhóm lập tức sau khi có những đơn vị quân Pháp đổ bộ.
"Những uỷ ban hỗn hợp sẽ được đặt ra tại các cấp để bảo nhậm, với tinh thần hợp tác thân thiện, sự liên lạc giữa quân đội Pháp và quân đội Việt Nam.

2.- Những phần tử binh lực thay thế Pháp sẽ chia làm ba hạng:

a) Những đơn vị có trách nhiệm bảo đảm sự canh giữ tù binh Nhật Bản. Những đơn vị này sẽ được hồi hương liền sau khi nhiệm vụ không còn có lí do, vì tù binh Nhật đã được thải đi; trong mọi trường hợp phải rút sau không quá mười tháng.

b) Những đơn vị có trách nhiệm bảo đảm, với hợp tác của quân đội Việt Nam, giữ gìn trật tự và an toàn lãnh thổ Việt Nam. Những đơn vị này sẽ được thay thế, mỗi năm một phần năm, bởi binh đội Việt Nam. Vậy sự thay thế ấy sẽ hoàn thành trong thời hạn năm năm.

c) Những đơn vị có trách nhiệm phòng thủ các căn cứ hải quân và không quân. Thời hạn và nhiệm vụ giao cho các đơn vị ấy sẽ định trong các cuộc đàm phán sau.

3.- Trong những địa điểm có quân đội Pháp và Việt Nam đóng đồn, những khu đóng trại có giới hạn rõ ràng sẽ chỉ định dành cho các quân đội ấy.

4.- Chính phủ Pháp cam đoan không dùng tù binh Nhật Bản về việc binh.

Làm tại Hà Nội ngày mồng 6 tháng 3 năm 1946

Kí: SAINTENY

Kí: HỒ CHÍ MINH

VŨ HỒNG KHANH

Lấy tình cảm mà phán, hầu hết quốc dân đều thất vọng vì hai ước nguyện độc lập và thống nhất có một thời gian tưởng đã đạt, nay bị tiêu tan. Nhưng những nhà đương sự phải đối phó với thực tế; mà thật tế là trong khi điều đình, chính phủ Trung Quốc đã cho phép quân Pháp năm trước chạy sang Vân Nam khi quân Nhật tấn công, được vũ trang trở lại chiếm vùng Tây Bắc; và sáng ngày mồng 6 tháng 3, các tàu chở quân đội Pháp đã vào Cửa Cấm và vừa đối pháo với một tiểu đội Trung quân, trái với sự thỏa thuận của tướng Leclerc để quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng. Trước thái độ hững hờ của các cường quốc, biết binh lực còn non nớt không thể công nhiên đương đầu với cơ khí của Anh, Mĩ mà quân Pháp được trang bị, chính phủ Liên hiệp kháng chiến chỉ có hai đường: một là chống lại bằng vũ lực nhưng rồi phải bỏ các đô thị để kháng chiến một cách anh dũng nhưng tối tăm như các tiền bối Trương Định, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám; hai là chịu lép đương thời để được Pháp công nhận là có nước Việt Nam rồi tựa vào dư luận dân Pháp và dân hoàn cầu và nhất là vào sự đồng tâm kiên quyết không chịu nô lệ của quốc dân, để tái lập dần sự hoàn toàn độc lập.

Thực ra bấy giờ còn có một con đường thứ ba là lợi dụng sự hiện có mặt của quân đội Trung Quốc mà chống quân Pháp đổ bộ. Đó là một kế mà một phần tử tướng và chính khách Trung Hoa xui ngầm một số người Việt Nam yêu nước. Nguyên là, hơn 60 năm về trước, Pháp đã lấy vũ lực để ép triều nhà Thanh phải để Pháp làm chủ trên đất Việt Nam. Nay Trung Quốc có thể giành lại thế lực ở đây với Pháp. Chính vì vậy tướng Trương Phát Khuê trấn thủ Quảng Tây đã che chở những chí sĩ Việt lưu ngụ ở đó và đã giúp lập nên những nghĩa hội để khôi phục Việt Nam. Trong hồi đại chiến ở châu Âu còn nồng, tổng thống Mỹ, F. Roosevelt hình như đã tán thành ý ấy, nhưng bấy giờ, năm 1946, Mĩ phải gờm thế lực Nga bành trướng Đông Âu, sợ cách mạng cộng sản ở Pháp, sợ quân Trung cộng thắng quân Quốc dân ở Mãn Châu. Vì vậy, Mĩ nuông chiều Pháp, và ép các sư đoàn tinh nhuệ nhất Trung quân đang đóng ở Việt Nam phải trở lên miền bắc Bắc Kinh. Chung qui cho những sự họ xui ngầm, hay là quấy rối Pháp ở Việt Nam chỉ có kết quả là tăng cái giá mà ngoại giao khôn khéo của Pháp (tuy dân chúng nghèo nàn vì bị chiếm đóng, nhưng tư bản vẫn giàu) phải trả trong khi mà quân đội Trung Hoa chịu rút về. Giá bằng vàng nén, theo tướng Salan, nhân viên Pháp quan trọng trong mọi việc điều đình (Mémoires 1 trang 355).

Chắc rằng những lãnh tụ Việt Nam "thân Hoa" đã cân nhắc lợi hại con đường này, cho nên vẫn ủng hộ chính phủ "Liên hiệp Kháng hiến". Nhưng phần lớn người đồng chí không tán thành. Đó là nguồn gốc sự nồi da xáo thịt sau này sẽ diễn ra dưới sự tán thành và thỏa mãn của quân Pháp, và bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Tường Tam tiếp xúc với đại diện các ngoại bang, nhất là yêu cầu tổng thống Mĩ nhìn nhận Việt Nam là nước tự do, rồi cầm đầu Phái đoàn đi dự Hội nghị Đà Lạt.

Vì sao có hội nghị này? Muốn hiểu những sự sẽ xảy ra trong những tháng sau, ta phải biết có sự xung khắc giữa hai vai chính trùm người Pháp ở Đông Dương: tướng cầm quân, Leclerc, có trách nhiệm chiếm lại lãnh thổ thuộc địa cũ; và đô đốc chính trị, D’Argenlieu, được giao quyền tái lập cai trị thực dân. Hiệp định sơ bộ nhờ lập trường của Leclerc mới có: nhận những điều kiện rộng rãi về danh từ để quân đội mình có thể đổ bộ lên Bắc bộ vào đầu tháng 6 mà không phải chiến tranh với một chính phủ ẩn nấp vào rừng. Còn D’Argenlieu thì vừa là một đô đốc thủy sư, vừa là một thầy tu đạo cơ đốc, rất bảo thủ về chính trị lại muốn theo gương các đô đốc chinh phục Đông Dương ngày xưa. Vì vậy, những điều Leclerc đã nhận thì D’Argenlieu chống, nhất là việc trưng cầu dân ý về thống nhất ba kỳ. Hồ Chí Minh đã thấy sự mâu thuẫn ấy, cho nên đã găng để cố nài đòi họp hội nghị ở Paris. Nhưng D’Argenlieu thì muốn họp ở Đông Dương để đặt những sự điều đình vào nội bộ địa phương mà thôi. Lấy cớ ở Pháp, chưa có quốc hội chính thức, chính phủ Pháp chưa chịu mở hội nghị điều đình. Nhưng sợ trong khi chờ, Cao uỷ Pháp lấn dần tư thế của ta, chính phủ Việt Nam đã đề nghị, và Pháp đã chấp thuận, một phái đoàn quốc hội sang thăm nước Pháp, và một phái đoàn khác bắt đầu điều đình với Pháp những điểm đã nêu rõ trong Hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3. Pháp muốn hội nghị này nhóm ở nơi cô quạnh, ngoài áp lực của dân chúng: Đà Lạt. Hội nghị lại chỉ có tính cách soạn sửa cho cuộc điều đình chính thức tại Pháp. Vì vậy nó đã mang tên Hội nghị trù bị Đà Lạt.

*

Sau những ngày chính phủ Trần Trọng Kim từ chức, cách mạng tháng 8 nổi dậy và chính phủ dân chủ cộng hòa thành lập, tôi được bỏ quên, yên phận sửa soạn thi hành sự dạy và viết sách môn toán học bằng tiếng Việt, và nỗ lực cứu vớt những sách tàn giấy cũ mà bấy giờ nhân dân cho đã lỗi thời, đưa bán làm hồ làm giấy lộn khắp đường Hà Nội. Thình lình, một hôm, một học trò cũ đại học mà đã thành một nhân viên quan trọng trong chính phủ, tới thăm ở thư trai tại xã Hoàng Mai. Sứ giả tươi cười nói: "... Riêng tôi muốn tới thăn thầy đã lâu. Nay chính phủ định lập một uỷ ban soạn sửa giao thiệp với nước ngoài, bắt đầu với Trung Quốc. Các anh đã nghĩ đến thầy..."

Tuy không lấy sự mời này làm lạ, nhưng tôi rất e ngại vì nội bộ bây giờ đang rất lục đục: Đảng Quốc dân và nhóm Đồng minh bất hoà với Mặt trận Việt Minh, và quân nhân Trung Quốc bênh vực các phe trên chống chính phủ lâm thời. Tôi đã trả lời rằng nếu tôi xét sự tham dự có ích thì tôi không từ nan, nhưng muốn ngoại giao có kết quả hay thì phải dàn xếp cho chóng êm đã. Ngày ấy là ngày 18 tháng 11 (1945). Tuy dưới áp lực Tiêu Văn, quân nhân chính trị của đạo quân Quảng Tây, các đảng Phái đã bắt đầu liên lạc nhưng sự đả kích nhau ngoài phố chưa yên. Tôi tự hỏi vì sao mà "Các anh đã nghĩ đến tôi?" và sực nhớ đến một câu chuyện liên quan đến mình xảy ra hơn một tháng trước.

Nguyên là, từ khi quân đội Trung Quốc vào đóng ở Bắc phần Đông Dương, những phần tử lánh uy quyền Pháp trên đất Trung Quốc lục tục trở về. Trước sự cách mạng đã nắm chính quyền trong nước, mà phần tử này không được dự, nếu kẻ cầm quyền không khôn khéo, thì không sao tránh được sự bất hoà biến thành đảng tranh. Mà chính phủ và quân đội Trung Hoa bấy giờ tự nhiên nuông tìm ý ủng hộ những người ý tưởng gần mình và thế lực cũng phải nhờ mình. Một việc đảo chánh gây ra bởi quân đội Trung Quốc rất có thể xảy ra. Đó là lẽ cốt yếu của sự kình thị và công kích giữa đảng phái. Mà nếu kình thị khuếch trương thành đại loạn thì nước Việt Nam không còn hy vọng gì sống lại nữa. Thế mà trong khoảng đầu tháng 10, nó đang khuếch trương. Tôi tìm tới vị cựu hoàng, bấy giờ đã thành cố vấn Vĩnh Thụy, tỏ sự hoang mang, rồi nói rằng: "Ngài có lúc mang tiếng chỉ giữ hư vị. Nay giữ chân cố vấn chính phủ, chính là lúc có thể bày tỏ vị ấy không hư".

Cố vấn hỏi: "Vậy nên nói gì?" Tôi bàn nên khuyên chính phủ dàn xếp một cách ổn thỏa và chính đáng với những người yêu nước thuộc những đảng khác để cùng đối phó với thời cơ cực kì gian nan. Thế rồi ngày 13 tháng 10, cố vấn cho hay rằng: "Cụ Hồ sẽ tiếp Hãn vào ba giờ chiều".

Tuy không biết hẳn đó là ý muốn của chủ tịch, hay cố vấn đã bịa ra sự tôi xin gặp, đến giờ tôi cứ tới dinh Chủ tịch. Lúc đến nơi, gặp một đại tá Mĩ cũng tới; nghe nói là để gỡ một đại diện bí mật Pháp, Sainteny, bị giữ vì cắm cờ Pháp trên xe đi diễu ngoài phố. Chủ tịch tiếp tôi hơn một giờ. Hai lần xin cáo biệt, nhưng cụ giữ lại. Ban đầu bình phẩm về chính quyền. Tôi có nói: (nay ta chưa độc lập, đang cần dư luận ngoại bang bênh vực. Nếu tỏ ra bất lực, hoặc có thái độ độc tài, thì khó lòng họ giúp mình). Cụ bảo rằng uỷ ban địa phương làm bậy, chứ chính phủ không có ý chuyên quyền. Cụ hỏi đi hỏi lại: "Thế ra họ nói chính phủ cộng sản, thực chăng?" Tôi đáp: (Cụ đã nghe vậy, thì có thật). Cụ nói: "Còn nói chính phủ độc tài, thì có đâu. Trong nội các có nhiều người không phải ở trong mặt trận Việt Minh".

Cụ lại phân trần việc bài xích hạng trí thức. Cụ nói chính phủ không làm điều ấy; nhưng có người làm thì chính phủ phải nhận lỗi. Rồi tôi nói sang chuyện đảng tranh làm dân chúng hoang mang. Chủ tịch rất chăm chú nghe, cặp mắt sáng trương to như rót vào mặt tôi. Cụ hỏi: "Trí thức theo cụ Nguyễn Hải Thần nhiều phải không? Ông giao thiệp rộng chắc biết". Trong trả lời, tôi có nói: "Hình như khi ở nước ngoài các cụ đã trù tính việc chung. Nay đều về, lại thấy các cụ chia rẽ, cho nên họ hoang mang. Nếu cụ Nguyễn Hải Thần chỉ kéo bè đảng mà thôi, thì chắc họ không theo. Cụ Nguyễn có tìm gặp tôi, tôi đã thưa rằng người trí thức chân chính không tìm địa vị. Các cụ già cứ hoà hiệp với nhau, rồi thì hạng trẻ như chúng tôi theo. Các cụ có cần gọi ra quét đường, họ cũng nhận."

Nét mặt không di chuyển, Chủ tịch đặt câu hỏi thẳng: "Đối với ông, thì cụ Nguyễn là thế nào?" Tôi đáp: "Tôi không được biết rõ. Nhưng cảnh huống bây giờ tuy là bậc cách mệnh lão thành nhưng trở về chậm nước, cụ phải ép vào thế non,... xem ra thế nào!" Cụ hỏi gặn: "Thế nào?" "Thế nào...tôi không tiện nói, chỉ có thể nói thế cụ Nguyễn không được thuận. Tuy nhiên làm cách mạng trong bốn mươi năm nay, cụ ấy có thanh thế. Vả hạng trí thức ai cũng sẵn sàng làm việc nước, mà bị chính phủ đem lòng ngờ vực, thì họ có đi theo cụ Nguyễn, cũng là người ái quốc, đó cũng không nên lấy làm lạ!"

Trong lúc nói chuyện, có người mang bát thuốc sắc cho Chủ tịch uống, lại có người mang giấy lại lấy chữ kí, một thanh niên ngồi đằng xa túc trực luôn luôn. Tôi đứng dậy xin về mấy lần. Chủ tịch vẫn giữ lại. Cuối cùng cụ lại hỏi thẳng một cách cụ thể rằng: "Tôi có hai chuyện muốn hỏi ông. Ông cứ trả lời thật...Câu đầu là đối với cụ Nguyễn Hải Thần nên làm thế nào?" Tôi đáp: "Nếu cụ Nguyễn có thể làm dễ cho sự ngoại giao, thì nên dùng cụ. Tuy không nên cải tổ hấp tấp ra dáng sợ áp lực, nhưng nên cải tổ chính phủ để hợp tác. Sự hợp tác phải thành thật, đừng để có cảm tưởng lấy danh mà thôi". Không động nét mặt một mảy may, Chủ tịch hỏi tiếp: "Vấn đề thứ hai là ông cho biết một câu sát kết về Chính phủ". Tôi phải lựa lời để đáp cho khách quan. Đại ý trong những câu này: "Trước khi thẩm kết về Chính phủ, xin nói về mặt trận Việt Minh. Chủ trương mặt trận là chống Pháp và chống Nhật. Chống Pháp là chí nguyện chung cho cả nước. Chống Nhật cũng là tất nhiên cho cách mạng và thuận với Đồng Minh đang thuận với độc lập Việt Nam. Vậy cái khẩu hiệu ấy là hợp. Nhưng trong hành động, sau ngày Nhật diệt chính quyền thực dân Pháp và tuyên bố để Việt Nam tự chủ vận mệnh của mình. Tự nhiên rằng người cách mạng chống Nhật không thể ra công khai nhận lấy chủ quyền cho nước. Con thuyền bị buộc đã được cắt dây. Nước tự hào có lịch sử vẻ vang, gồm hăm lăm triệu người; há lại để thuyền trôi không lái. Cả Nhật, Pháp và Đồng Minh sẽ đánh giá lòng yêu chuộng độc lập của dân ta ra sao. Vì vậy đã có chính phủ Trần Trọng Kim. Chỉ tiếc rằng mặt trận không làm dễ cho chính phủ công khai quản lí việc dân và dự bị sự giao tiếp và khi quân Nhật tất phải đầu hàng. Dẫu sao, khi quân Nhật đầu hàng, Mặt trận ra nắm chính quyền là hợp lẽ và có thể có lợi cho độc lập được nhìn nhận. Nghĩ như vậy, chính phủ Trần Trọng Kim đã có tác động cuối cùng là khuyên cựu hoàng mời các nhà cách mệnh ra chính thức thành lập chính phủ, nhưng thiếu chuẩn bị, sự ấy không thể thành, kết quả là những sự tổn thất về tinh thần trong khi cướp chính quyền và không thể lợi dụng sự hoang mang của quân nhân Nhật khi nhận được lệnh phải đầu hàng. Nói về chính phủ thì chủ trương đại thế chính trị hợp lẽ, nhưng hành động dường như tưởng đã thành công cho nên sợ chia trách nhiệm và chính quyền. Chắc riêng Chủ tịch hiểu rằng đường đi đến độc lập và thống nhất còn dài và khó, nhưng đại đa số còn lầm tưởng gần xong."

Chủ tịch còn cảm ơn và thêm: "Hôm nay, ông cho tôi biết được nhiều điều". Tôi đứng dậy, từ giã, xuống lầu, cảm động vì đã có dịp tỏ nhiều lời tâm huyết, vì thấy vận mệnh của dân nước đè trên vai một vị cách mệnh thâm niên gầy ốm, nhưng tinh thần tinh anh, mặc tĩnh, thâm trầm và cử chỉ ôn tồn, gãy gọn và kiên quyết. Không biết cảm tưởng của Chủ tịch đối với cá nhân tôi và những trực ngôn tôi ra sao. Có lẽ không ai biết. Dẫu sao hơn tháng sau, Cụ nhận hợp tác của các phái đối phương, và riêng với tôi, "các anh đã nghĩ đến". Thật ra thời thế cấp bách phải đi đến thế. Rồi bầu Quốc hội (mồng 1 tháng giêng năm 1946) lập Chính phủ chính thức (mồng 3 tháng 3), kí hiệp định sơ bộ với Pháp (mồng 6 tháng 3), đón Leclerc tới Hà Nội (18 tháng 3), gặp D’Argenlieu tại vịnh Hạ Long (24 tháng 3), gửi một phái bộ sang thăm Pháp và một phái đoàn lên Đà Lạt bắt đầu tranh biện về những chi tiết thực hiện hiệp định sơ bộ, (16 tháng 4 lên đường). Phạm Văn Đồng cầm đầu phái bộ sang Paris, Nguyễn Tường Tam cầm đầu phái đoàn Đà Lạt. Tôi được sai dự phái đoàn này. Lần này tôi nhận lệnh vì có nhiều triệu chứng Cao ủy D’Argenlieu đang phá hiệp định kia, bắt đầu phá điều trưng cầu dân ý về thống nhất ba kì.

*

Quả vậy, ngày 12 tháng 3 (1946), cơ quan tối cao mà chính sách thực dân đã tái lập ở Sài Gòn, là Hội đồng Tư vấn Nam kì, đã nhóm họp dưới quyền uỷ viên Pháp Cédille, Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh đặt một đề nghị sửa soạn lập xứ Nam Kì tự trị. Lời đề nghị dịch ra tiếng Việt theo báo Tân Việt (Sài Gòn, số 36, ngày 13 tháng 3-1946, nghĩa là đúng một tuần sau ngày kí Hiệp định sơ bộ) như sau:

- Nghĩ vì trong bản tuyên ngôn ngày 24-3-1945, chính phủ Pháp đã nhìn nhận một cách chánh thức nền tự trị của mỗi xứ trong Liên bang Đông Dương, nghĩa là có xứ Nam kì.

- Nghĩ vì bản sơ ước Pháp - Việt vừa kí kết ngày 6-3-1946 ở Hà Nội không nói rõ rằng bản sơ ước chỉ áp dụng cho hai xứ Bắc và Trung kì, và tiếng Việt Nam dùng trong bản sơ ước có thể khiến cho người ta hiểu lầm là có xứ Nam kì trong đó, vì từ trước đến giờ, tiếng "Việt Nam" ấy vẫn dùng để chỉ cả ba kì: Bắc, Trung, Nam;

- Nghĩ vì bản sơ ước ấy có nói qua sự mở một cuộc trưng cầu dân ý ở Nam kỳ, mà Hội đồng tư vấn Nam kỳ chưa được hỏi ý kiến; nghĩ vì dân chúng Nam kỳ rất xôn xao bất bình vì những lời trong bản sơ ước ấy vẫn còn mờ ám, nó có thể làm người ta tưởng lầm rằng quyền của dân chúng Pháp Việt ở Nam kỳ không còn nữa;

- Nghĩ vì xứ Nam kỳ đã 6 tháng nay bị tàn phá vì sự đô hộ của Việt Minh, nên nay không thể cực lực phản đối sự gia nhập vào khối Việt Nam, mà xứ Nam kỳ phải đưa về cho những kẻ sát nhơn rồi sự tuyên truyền, sự hăm dọa của chúng sẽ làm cho sai cả cuộc trưng cầu dân ý;

Cho nên chúng tôi mong rằng:

 1.- Vị đại diện của nước Pháp ở Đông Dương sẽ công bố chính thức rằng bản sơ ước 6-3-46 sẽ để cho xứ Nam kỳ hoàn toàn tự trị.

2.- Theo đúng với quyền dân tự định đoạt, xứ Nam kỳ phải được tự do định lấy những điều kiện về chính trị, không được cưỡng bách, bất cứ do lệnh ai.

3.- Sự trưng cầu dân ý sẽ không tránh khỏi mờ ám, lộn xộn nếu các điều kiện cần yếu về trật tự và yên ổn chưa được lập lại đàng hoàng trong xứ, để có thể xét tánh danh hạnh kiểm của những người bỏ thăm, mà trong cuộc loạn lạc vừa qua, giấy tờ và sổ bộ đã bị đốt phá đi mất nhiều.

Và cần phải có phương sách đảm bảo sự tự do kín đáo của lá thăm và sự thành thật trong khi dọ ý kiến dân.

Kí tên:

Béziat, Clogne, Bazé, Nguyễn Văn Thinh,
Trần Tấn Phát, Trần Thiện Vàng,
Nguyễn Tấn Cường, Lê Văn Định.

Báo Tân Việt còn ghi rằng: "Bản đề nghị đọc xong, ông Cédile, chủ tịch, xin hội đồng bỏ thăm. Kết cục, bản đề nghị của ông Thinh được đa số tán đồng với 9 thăm chống 1".

Tám tháng sau, thấy mình bị thực dân lừa gạt, đã đem bánh vẽ đưa mình làm việc phi nghĩa, Nguyễn Văn Thinh đành tự tử, nhưng trước khi họp hội nghị Đà Lạt, cái đề nghị trên đã báo cho mọi người biết thái độ của thực dân. Tôi đã tự hỏi đi Đà Lạt còn có ích gì nữa chăng, hay chỉ có thực lực mới ép thực dân tôn trọng Hiệp định vừa mới kí. Sự đoàn kết cũng là một phần thực lực; Phái đoàn có Nguyễn Tường Tam, Võ Nguyên Giáp, sự có mặt của những người không đảng phái càng tỏ sự đoàn kết thêm. Vả chăng thái độ phá hoại Hiệp định sơ bộ có lẽ chỉ là thái độ thực dân, còn dân Pháp, trí thức Pháp, quân nhân Pháp vừa trải qua sự giải phóng đất nước Pháp một cách đau thương thấm thía, lẽ nào lại không thông cảm với lòng ham muốn độc lập thống nhất của nhân dân Việt Nam. Riêng cá nhân tôi, đã từng có sự quan hệ với các bạn Pháp, hoặc chức trách Pháp, và có nhiều lần bày tỏ ý kiến nguyện vọng dân tộc mình. Gần đây, khi bạn đồng môn Nguyễn Ngọc Bích bị bắt ở bưng biền, tôi đã viết thư ngỏ, đăng báo LA REPUBLIQUE tại Hà Nội, giải thích cho các sĩ quan Pháp cũng học đồng môn, cái lẽ vì sao họ phải đương đầu với toàn dân Việt trong sạch, kể cả những kẻ hầu như đã Pháp hóa như bạn Bích. Vậy bấy giờ, tôi nhận đi Đà Lạt; vì có dịp công nhiên bày tỏ cho Pháp và cho mọi người rõ sự đòi độc lập thống nhất không phải như thực dân lầm tưởng chỉ là khẩu hiệu của "bọn cách mạng quấy rối" mà thôi.

Vả chăng hồi trước cuộc đảo chánh Nhật ở Đông Dương, tôi đã có dịp gần phe "Kháng địch Pháp" tại Đông Dương và có dịp tỏ nguyện vọng dân tộc mình cho họ biết.

Trong hồi làm giáo sư Toán học, tuy tôi không làm chính trị, nhưng không hề giấu ý kiến chính trị và thời thế, khi có dịp bày tỏ ý mình. Cũng nhờ vậy, mà đã tránh được mọi cạm bẫy hư danh chính trị. Khi quân Nhật đến đóng tại Đông Dương, chính khách Pháp tại đây đã để ý đến tôi và một số bạn hữu. Đối với chính quyền, thì sự giao thiệp chỉ có tính cách hình thức mà thôi, như sự đô đốc Decoux, toàn quyền Đông Dương, thỉnh thoảng mời, riêng lẻ hay cùng "nhân sĩ" khác để loà mắt người Nhật và nhân dân ta. Sự giao tế ấy nhã nhặn nhưng vô bổ. Trái lại trong nhóm người pháp chống Pétain, có kẻ đã lân la dò ý kiến về tương lai khối Đông Dương; có lẽ là hậu quả tuyên ngôn của De Gaulle tại Brazzaville đổi chế độ thuộc địa ra chế độ Liên hiệp Pháp, vào tháng giêng 1944. Từ đó, cựu tiết chế quân đội thuộc địa ở Đông Dương nhiều lần mời tôi tới nhà hoặc lại nhà tôi, trò chuyện chính sách hiện thời và tương lai ở xứ ta. Cựu tiết chế, tướng Mordant, đã vì không đồng ý với toàn quyền Decoux, nên đã từ chức, để cầm đầu nhóm Kháng địch sửa soạn đón quân Đồng Minh tới giải phóng Đông Dương. Đô đốc Decoux cũng biết sự ấy, nhưng đối với quân Nhật thì phải có thái độ ỡm ờ.

Mordant đã đưa kín cho tôi đọc bản tuyên ngôn Brazzaville, và đề nghị với tôi, nếu bằng lòng, thì sẽ tổ chức đưa tôi và một nhân sĩ cao tuổi ra nước ngoài để bàn tính tương lai xứ Đông Dương. Sau khi bàn luận với một nhóm bạn bè, chúng tôi đã nhận định rằng: Bấy giờ nước Anh là một nước sức và thế mạnh hơn Pháp nhiều, mà cũng đã hứa độc lập cho Ấn Độ, Miến Điện, thì Việt Nam không thể không đòi lời hứa độc lập. Sau khi tôi đã trao lại ý ấy cho tướng Mordant, tướng sửng sốt bảo rằng: "Không bao giờ có sự ấy được!".

Tôi ôn tồn trả lời: "Vì ông hỏi ý kiến nhân dân Việt Nam đối với tương lai họ, thì tôi đã nói sự thật; chứ tôi không sợ rằng tương lai gần của chúng ta chưa biết ra sao..."

Tướng nói: "Chúng ta sẽ được giải phóng, nước Pháp vẫn chủ quyền. Quân Nhật có làm trò gì được nữa".

Tôi tiếp lời: "Bây giờ, Pháp còn chủ quyền ở đây thì một lời hứa ấy sẽ kéo lại hoàn toàn thiện cảm của nhân dân Việt Nam. Nếu người ngoài, gần hay xa, có ác ý đối với Pháp ở đây, họ phải dè dặt vì đã không có cớ thì sợ nhân dân Việt Nam sẽ ủng hộ Pháp. Chứ không, ví bằng sau này một nước thứ ba tặng cho chúng tôi độc lập, thì chúng tôi sẽ không đáng độc lập, nếu không can đảm nhận món quà ấy. Mà tôi sợ rằng độc lập trong trường hợp ấy không lợi cho nước ông, và chưa chắc đã lợi cho chúng tôi bằng cách độc lập với sự thoả thuận của các ông tự bây giờ".

Trong trả lời trên, tôi đã ngụ ý đến hai việc đang phát hiện: tin Cường Để lập đảng trong nước và sắp được đưa về, và sự toàn quyền Decoux mời riêng nhiều người Việt và bảo rằng đừng tuyên truyền Anh và Mĩ và phải coi chừng ảnh hưởng đế quốc chúng. Không hiểu tướng Mordant nghĩ tới Nhật hay Anh, Mĩ, liền đáp: "Nếu vậy, chúng tôi sẽ đem quân chinh phục lại Đông Dương".

Tôi còn nhớ rõ câu bực tức ông nói cuối cùng: "Muốn đặt một khối chóp thăng bằng mà lại đặt đầu nhọn ở dưới!".

Từ đó ông lại kính nể tôi. Một hôm ông hỏi tôi: "Tôi muốn bảo những người chức trách thay thế người cộng sự An Nam, vì chúng phần nhiều chỉ biết tùy tùng, ton hót và tham nhũng. Nhưng lấy đâu ra những người tốt và trong?" Tôi trả lời: "Hư hèn thường gây ra bởi nô lệ. Còn những người tốt và trong có nhiều ở ngục thất. Chính phủ biết cả đó..." Tôi hơi mỉm cười, chắc ông nhớ lại một câu chuyện cũ tôi đã nói, ông nối lời: "Các người ấy ở Sơn La và Côn Lôn phải không?"

Vào cuối năm 1944, phái Kháng địch đã ngầm làm chủ ở phủ toàn quyền, đô đốc Decoux chỉ giữ hư vị để lòa mắt người Nhật. Tướng Mordant cho tôi biết rằng phủ Toàn quyền sẽ lập một hội đồng cố vấn tối cao gọi là Hội đồng Đông Dương và tôi sẽ được mời tham dự. Đáp một lời tôi hỏi, ông nói rằng sự chọn tôi không phải tự ý ông và tôi tùy ý nhận hay không. Vài ngày sau, Khâm sứ Bắc kì mời tôi để chuyển ý Toàn quyền. Lần này, chính thức tôi nói mong chính phủ Pháp đổi hẳn chính sách đối với các nước Đông Dương thì những người mới như tôi mới hợp tác về chính trị được.

Hơn một năm sau, người Việt và người Pháp sắp gặp mặt nhau trở lại để bàn định tương lai của nước Việt Nam, nhưng lần này địa vị ngang nhau: sứ giả đối phương của hai nước. Tôi mong sẽ có ít nhiều ảnh hưởng đến kết quả Hội nghị. Mong vậy, tôi nhận tham dự phái đoàn đi Đà Lạt.

Phái đoàn Đà Lạt gồm 12 đại biểu, 12 cố vấn.

Ngoài trưởng đoàn Nguyễn Tường Tam và phó trưởng đoàn Võ Nguyên Giáp, các đại biểu là Trịnh Văn Bính, Cù Huy Cận, Hoàng Xuân Hãn, Vũ Văn Hiền, Vũ Hồng Khanh, Trần Đăng Khoa, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Luyện, Phạm Ngọc Thạch, Bùi Công Trừng và Nguyễn Mạnh Tường.

Cố vấn là: Tạ Quang Bửu, Kha Vạng Cân, Kiều Công Cung, Đinh Văn Hớn, Phạm Khắc Hòe, Nguyễn Văn Huyên, Hồ Đắc Liên, Phan Văn Phát, Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Duy Thanh, Nguyễn Tường Thụy và Hồ Hữu Tường.

Trong khi chọn lọc ủy viên, chắc chính phủ đã chú ý chọn những nhân vật có tiếng ở miền Nam về chuyên môn và chính trị. Trong các nhân viên giúp việc cho phái đoàn có: Trần Văn Tuyên về nội vụ và lễ nghi, Võ Hữu Thu về văn phòng, Duông về vô tuyến truyền tin, một sĩ quan bảo vệ Võ Nguyên Giáp. (Tôi chỉ ghi tên và quên họ).

Từ ngày 19 tháng 3, bộ Ngoại giao đã lập ban nghiên cứu hiệp định sơ bộ để định nghĩa những chữ dùng trong đó và lập những bảng kê một chương trình yêu sách tối đa, còn mực tối thiểu thì sẽ có Hội nghị Paris sau này và chính phủ định đoạt. Đại khái, uỷ ban đề nghị rằng:

Nước tự do là một nước có đủ các cơ quan tự chủ để sinh tồn và bảo vệ; chỉ bị ràng buộc bởi những hiệp ước với các xứ Liên bang Đông Dương và Pháp.

Liên bang sẽ tạo thành bởi những dây liên lạc, định rõ ràng: Liên hiệp quan thuế, hiệp ước tiền tệ, hiệp định vận tải, bưu điện, công tác có ích chung, hoặc có nhận những yêu cầu nguyên tắc lập theo dân số ở các xứ trong liên bang.

Liên hiệp Pháp là liên hiệp về văn hóa, kinh tế và về ngoại giao với nước ngoài Liên Hiệp. Sẽ yêu cầu có đại sứ ở đâu cần, nhất là ở Paris có đại biểu đặc biệt, nhưng Việt Nam cam kết không kí hiệp ước gì với nước ngoài làm trái quyền lợi Pháp.

Được tin sáng ngày 16 tháng 4 sẽ có máy bay Pháp đưa đi Đà Lạt. Ngày 15 sửa soạn vali: Vài bộ áo rét, một ít vật dụng. Chiều, bốn giờ, chính phủ họp phái bộ để dặn dò.

Cụ Chủ tịch dặn phải trù bị mọi việc cho thận trọng, vì hội nghị này sẽ có ảnh hưởng lớn về sau. Nguyên tắc chính phủ đặt ra là:

1.- Hết sức đoàn kết từ ý kiến đến hành động;

2.- Hết sức cẩn thận;

3.- Giữ bí mật;

4.- Trước lúc tuyên ngôn gì với đại biểu Pháp, phải thảo luận trước;

5.- Sau khi thảo luận với đại biểu Pháp một vấn đề gì, lúc về phải cùng nhau kiểm thảo lại để xem lẽ mình thắng hay bại ở chỗ nào;

6.- Mỗi khi thảo luận nên chia ra làm ba nhóm: xung phong, hậu thuẫn và trừ bị. Cụ Chủ tịch nói: "Phải có người đấm, người xoa".

7.- Mình chỉ xướng ra những vấn đề nghiêm trọng. Ngoài ra, để đại biểu Pháp đặt đề ra;

8.- Khi gặp vấn đề gì hai bên chưa thỏa thuận với nhau, thì để tách nó ra; chứ đừng nói để hỏi ý kến Chính phủ, vì nếu làm vậy thì sẽ thắt Chính phủ vào việc đàm phán này (ý là hội nghị chỉ là sơ bộ; ta dự là để tùy ý D’Argenlieu, chứ Chính phủ chỉ tham dự chính thức vào hội nghị sẽ nhóm tại Pháp).

Cụ phó chủ tịch can thiệp vào, hỏi: "Về vấn đề Nam bộ thì nghĩ thế nào?" Theo bút kí của tôi chép liền lúc bấy giờ thì Chủ tịch trả lời: "Không nên nêu lên vấn đề đình chiến". Có lẽ bây giờ cụ đã nghĩ rằng sự tác chiến tiếp tục ở miền Nam là hậu thuẫn cho Hội nghị chăng? Trái với ý trên, trong khi hội đàm, vấn đề đình chiến ta sẽ nêu ra và sự tranh thủ rất là gay gắt mà phái đoàn Pháp nhất định không chịu nhận bàn.

Cụ Huỳnh lại dặn: "Về hòa ước Trung - Pháp, ta đừng tỏ ý kiến gì".

Cụ Hồ nối lời dặn. Về Hiệp định sơ bộ, đại để phải giữ vững những lập trường sau này:

1.- Nước tự do (Etat libre).- Phải nói rõ trình độ tự do; nhất là về lãnh thổ, phải có thống nhất hoàn chỉnh.

2.- Liên Bang (Fédération).- Liên bang Đông Dương chỉ có về mặt kinh tế mà thôi. Nhất định không nhận Chính phủ Liên bang.

3.- Liên hiệp (Union).- Nhận tự do liên hiệp với Pháp, nhưng quyền hạn và nhiệm vụ của Việt Nam phải định rõ. Việt Nam phải được quyền thảo luận và biểu quyết trong sự định đoạt ở Liên hiệp. Về ngoại giao, ta phải có tối thiểu: là ngoại giao độc lập với các nước lớn Anh, Mỹ, Trung, Nga và các nước láng giềng Xiêm, Ấn, Phi Luật Tân. Pháp phải giới thiệu nước ta vào ONU.

Về tài chánh, phải có ngân hàng, tiền tệ;

Về kinh tế thì chủ quyền kinh tế phải thuộc nhà nước;

Về quân sự thì không chịu quân sự liên bang. Phải định rõ số lượng quân Pháp, nhiệm vụ, các địa điểm đóng quân và thời gian đóng quân.

Kết luận, Chủ tịch dặn: "Căn cứ vào Hiệp định sơ bộ để đi đến công tác thực thà với Pháp".

Nguyễn Tường Tam trả lời thay cho phái đoàn: "Xin cảm ơn Chính phủ đã đề cử chúng tôi đàm phán. Xin hứa sẽ làm tròn nhiệm vụ và yêu cầu Chính phủ điều khiển nhân dân ủng hộ phái đoàn, và yêu cầu các đảng phái đoàn kết".

Phó trưởng đoàn, Võ Nguyên Giáp, cũng biểu đồng ý rồi thêm rằng: "Về việc các đại biểu đoàn kết với nhau, thì không đáng lo. Còn về phần các đảng phái đoàn kết thì hai đảng phái đã quyết nghị thống nhất bộ đội".

Cuối cùng cụ Huỳnh Thúc Kháng tuyên bố: "Khi nào anh em muốn được ủng hộ, thì tôi có thể họp đông dân chúng được liền".

Sau hơn sáu tháng đảng tranh, bấy giờ ai cũng đồng lòng nghĩ đến tổ quốc trước hết, tôi rất cảm động và nghe như đang sống một phút thiêng liêng, và nhớ lại lúc nhận cùng cụ Trần Trọng Kim họp Chính phủ tự lập đầu tiên để tìm phương phục sinh cho dân nuớc.

*

Năm giờ rưỡi sáng ngày 16 tháng tư, Phái đoàn hội tụ ở phủ Bắc Bộ, trước khi lên đường. Cụ Chủ tịch và một vài bạn thân nhân viên Phái đoàn tới tiễn chân. Một chi tiết đặc biệt: Chính phủ phát cho mỗi nhân viên một món tiền, 20 tờ bạc một trăm. Tuy rằng ăn ở tại Đà Lạt đã được Cao uỷ Pháp mời, nhưng số tiền ấy giữ để phòng có sự bất trắc. Nếu không cần tới thì lúc về lại nộp cho Chính phủ. Không khí thật có vẻ gia đình, y như đàn con được cha chú tiễn chân khi sắp trẩy.

Ra đến đường bay Gia Lâm thấy Phái đoàn thân thiện đi Paris đang sắp sửa lên máy bay. Các máy bay bấy giờ là do Chính phủ Pháp cho mượn. Chúng tôi lên một chiếc Junker là tàu bay chở binh của Đức mà Pháp đã tịch thu. Thứ tàu bay ấy có ba động cơ, thân vuông lại hay hỏng máy, cho nên bấy giờ được đặt tên chế giễu là Cái quan tài bay. Trong lòng tàu trang bị cực sơ sài, chỉ có hai cái ghế dài hai bên như trong chiếc xe đò ở bên ta. Bay thì không quá ba nghìn thước và tốc độ chỉ chừng 200 kilômét mỗi giờ.

Chúng tôi lục tục lên tàu, một người có vẻ khác mọi người là vị sĩ quan ngồi kèm Võ Nguyên Giáp, mặc binh phục màu vàng, mang nhãn hiệu sao vàng ở mũ và khẩu tiểu liên làm phồng to cái bao da áp đùi. Mỗi người chỉ đem đi một cái vali nhỏ. Võ Nguyên Giáp có cái cặp da căng bởi giấy tờ. Đặc biệt nữa là có cái hòm to dài rất nặng; đó là cái máy vô tuyến điện thu phát tin tức mà kĩ sư Tình phụ trách mang theo.

Mặt trời đã cao, trời nửa nắng nửa mây. Tám giờ kém hai mươi, máy bay tôi ngồi bắt đầu chuyển máy. Mười lăm phút sau, máy bay lìa đất, lượn nửa vòng sang bên sông Nhuệ rồi bay về hướng Nam. Đấy là lần đầu tiên, tất cả chúng tôi được nhìn "đất nước" của ta từ trên không trung. Ai ấy đều quay đầu nhìn ra cửa sổ nhỏ: đồng vàng, sông đỏ, làng mạc xanh thâm. Trông xa ở chân trời núi non lam nhạt. Lòng yêu nước càng nồng và sực nghĩ thấy nỗi lo mất nước càng mạnh. Phút chốc, hình non sông đã biến; máy bay đang vượt dặm trên từng mây trắng trải mênh mông. Một giờ sau, ngoài khung cửa kính, thấy le te mấy hòn đảo, lốm đốm bóng thuyền trên nền nước xanh. Lấy chừng giờ bay, đoán đang lướt trên cửa Biện là một cửa bể và thương phụ có tiếng đời xưa ở chỗ ranh giới hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An. Máy bay vẫn giữ hướng Nam, lục địa xa dần về phía phải. Chín giờ hăm bảy phút, máy bay vòng vào phía đất. Giáp nước xanh; từ từ hiện rõ một cái thành vuông; đường sá, sông ngòi, nhà cửa trông rõ và xinh như vẽ. Đó là tỉnh thành Hà Tĩnh, tỉnh quê của Cù Huy cận, Phạm Khắc Hòe và tôi. Cố rán nhìn về phía Bắc: đây là núi Hồng Lĩnh, xa hơn nữa hình như thấy vết sông Lam. Các làng chúng tôi xúm xít ở đâu về phía ấy. Rồi máy bay lên cao trở lại, vượt núi Truông Bát, vào đất anh hùng Hương Khê, chỗ nghĩa quân của Phan Đình Phùng đã đánh mấy trận cuối cùng với kẻ ngoại xâm.

Máy bay vẫn ì ạch gắng lên cao, chui qua truông Mụ Già đến địa phận Cam Môn, Cam Cát. Núi rừng mù mịt một màu xanh thẳm, thỉnh thoảng hiện ra mấy lườn núi đá đen sì, vạch trên nền xám. Sông ngòi vô tận, quanh co chia rìa như đường sống lá cây.

Mười giờ năm mươi đã thấy sông Khóng phía xa, và con đường quan lộ thẳng ro. Máy bay sà xuống thấp, lướt trên đống ruộng ướt, rải rác nhà chòi, qua sông rồi vòng trở lại hạ cánh trên một bãi cỏ rộng: sân bay Paksé. Mười một giờ năm phút. Bay mất ba giờ, vượt được sáu trăm năm mươi cây số. Thế là máy đã hết hơi phải dừng lại nghỉ.

*

Chúng tôi xuống duỗi chân. Bên cạnh sân bay, có quán bán thực phẩm cho lính Pháp. Chúng tôi mua bánh mì và cá hộp để ăn trưa. Một giờ mười lăm, lại lục tục trở lên ngồi trên ghế sắt trong tàu, đợi khi tàu cất cánh. Nhưng phi công tới bảo phải đi xuống vì động cơ giữa chết, đang phải gọi máy bay khác từ Sài Gòn lên đón. Quan binh chức trách Pháp tới sân bay đem tất cả phái đoàn về nghỉ đêm ở nhà khách của tỉnh Paksé.

Chúng tôi rủ nhau đi dạo trên đường phố. Dọc sông, đường khá rộng, nhà cửa sạch sẽ. Trông sang bên kia sông Khóng, thấy có hai quả núi; một quả đầu bằng như núi Ngự Bình. Nhân dân phần nhiều ngồi xổm trước cửa, nhố mắt nhìn lũ Việt Nam này, lang thang trên mặt đường, ăn bận âu phục lịch sự; lại có một võ quan mũ mang nhãn hiệu tròn nền đỏ sao vàng, bao súng áp đùi, kè kè bên cạnh một chàng trán rộng mắt sắc, xách kệ nệ một cặp sách kếch sù! Tôi đi chậm lại, lẻ một mình ở sau để quan sát dễ dàng. Có người dân đứng lấp ló ở trong cửa nhìn ra, xem ra dáng người Việt. Tôi vờ hỏi thăm đường, rồi nhân hỏi thăm tình trạng người Việt bên ấy, nhất là tin tức những Thanh niên Tiền tuyến ngày trước đã phái sang Lào nhiều. Người kia cho biết rằng người Việt đã phải chạy sang Xiêm đến hai phần ba, nhưng ở lại còn đông. Sự buôn bán vẫn ở tay người Việt quê Bắc Bộ, hoặc quê Vinh và Bình, Trị, Thiên.

Một bọn lính Pháp từ trong một tiệm rượu thất thểu đi ra, chuyện trò như cãi cọ, tiến gần đến phía sau tôi. Tôi để ý nghe. Một người nói: "Cho hai quả lựu đạn thì hết điều đình! - Deux grenades dedans et finies les négociations" Tôi cố trấn tĩnh nhưng quay lại thấy có đứa mang vũ khí ở người. Tôi sợ chúng có thể làm càn, nhất là nếu chúng chạm trán với viên võ quan Việt Quốc quân. Tôi cố ý đi chậm lại để nghe thêm. Một tên lính khác nói: "Phải buộc tất cả chúng nó vào cột bắn. - Il faut les mettre tous au poteau". Tôi lanh ý, muốn kìm chúng lại, để các nhân viên, nhất là viên đại úy và Võ Nguyên Giáp, đi cách xa. Bấy giờ chúng tiến đến ngang tầm tôi. Tôi vẫn thản nhiên đi lẫn với chúng. Tôi quay đầu lại tên vừa nói câu trên và nhẹ nhàng hỏi: "Anh nói vậy là nói cho tôi à? - Vous dites cela pour moi?" Người ấy trả lời "Nếu anh là Việt Minh thì ừ! - Si vous êtes Vietminh, oui ! Anh có phải Việt Minh không ? - Est-ce que vous êtes Vietminh?"

Tôi nhận thấy nó không xưng mình bằng "mầy", và xem bọn lính này rất trẻ, mặt mũi tuy ngang tàng như con trai trẻ tinh nghịch, nhưng không có tinh thần ác như một số lính mũ đỏ đã thấy trên đường Hà Nội. Tôi bèn trả lời: "Việt Minh là một đảng chính trị. Đây là người của Chính phủ Việt Nam, mà chính phủ Việt Nam đã kí một hiệp ước hòa bình với Chính phủ Pháp".

Một người lính khác hỏi: "Các anh đi đâu?" Tôi đáp: "Chúng tôi đi Đà Lạt để bàn luận chi tiết về Hiệp định ấy. Chúng tôi ngừng lại đây vì máy bay hỏng động cơ."

Một người thứ ba nói: "À! Chúng nó đi hội đàm với phái đoàn Pháp tại Đà Lạt."

Tôi đã đứng lại trong khi nói chuyện với bọn lính này. Chúng đứng xúm xít xung quanh. Các nhân viên phái đoàn đã đi xa không ai nhìn lại sau, nên không biết chuyện. Tôi lại bước đi rất chậm và tiếp tục nói chuyện một cách hồn nhiên. Tôi nói: "Chúng ta giết nhau thì thật là ngu - C’est idiot de nous entretuer". Một người lính Pháp nói: "Chúng tôi vừa bị tập kích khoảng giữa Savanakhet và...(Tôi nghe không kịp rõ). Một xe bị bắn."

Tôi phải lựa lời để làm quên câu chuyện: "Đó có là có sự hiểu lầm. Chúng tôi sẽ bàn về chuyện đình chiến... Này! Các anh có mặt ở Paris ngày Paris được giải phóng không?" Phần lớn trả lời rằng có. Tôi nói tiếp: "Các anh khi đấy sung sướng nhỉ! Đã vậy thì các anh hiểu rằng bây giờ đánh người Việt Nam là vô lý - Vous comprenez alors qu’il est absurde de faire la guerre aux Vietnamiens". Chúng đều im. Bấy giờ coi bộ chúng hơi thắc mắc. Tôi nhân đó, chào rồi tháo vòng vây. Chúng rẽ ra để tôi đi về phía nhà trọ.

Ấy là một căn nhà gạch nhỏ, mà hồi trước công sứ Pháp giành cho những khách Pháp đi qua Paksé phải trú lại ban đêm. Chung quanh có vườn nhỏ và có tường thấp. Trong nhà thì trống không, không cửa đóng. Nhà binh Pháp cho mượn ghế bố và chăn. Nhân rỗi chúng tôi họp bàn sửa soạn công việc mọi người phải làm khi đến Đà Lạt và chia trách nhiệm tổ chức: Hòe coi bí thư, Thu thường thư, Tuyên nội vụ và điển lễ. Khoa liên lạc địa phương có Hòe giúp (Hòe trước có làm quản đạo vùng này), Cận điều tra, Tình Thanh việc liên lạc xa bằng vô tuyến điện. Mạnh Tường Huyên là phát ngôn nhân. Tam, Giáp, Hãn, Hiền, Trừng dự tiểu ban thảo những tuyên ngôn. Riêng tôi được giao công việc liên lạc thường trực.

Lại dự bị khi tới thì đặt vòng hoa ở Nghĩa địa ta, Hòe sẽ hỏi chương trình Pháp đề nghị và định rằng khi gặp phái đoàn Pháp, nếu D’Argenlieu diễn thuyết thì Tam chỉ trả lời vắn tắt mà thôi.

Giời gần tối, Giáp lại nằm trên ghế bố cạnh Mạnh Tường và tôi, trông ra vẻ rất tư lự, chắc vì chuyện chính trị và quân sự chung, nhưng có lẽ cũng vì câu chuyện tụi lính ban chiều mà tôi đã kể lại. Còn Mạnh Tường thì vẫn tươi cười đùa bỡn như ngày thường. Giáp kể chuyện chiến khu và nói: "Phong cảnh chiến khu rất đẹp. Đời sống ở đó say sưa. Lúc về, thế nào tôi cũng đưa các anh lên thăm chiến khu." Tôi không nhớ câu chuyện dây dưa thế nào mà Tường nói bông rằng: "Anh Giáp phải lấy vợ." Giáp cũng đùa rằng: "Nhờ các anh kén cho." Tường nói buột ra tên một cô phụ nữ cứu quốc có tiếng đương thời. Giáp coi vẻ ngạc nhiên, chỉ cười nhạt. Rồi Tường lại nói về tướng số. Cuối cùng Tường nói: "Nghe nói Hãn có lá số tốt, nhưng bị thiếu mất một ngôi sao." Tôi không thể giữ miệng, liền nói đùa: "Một ngôi sao vàng!" Tường im lặng. Giáp cười nửa miệng. Tôi phải đỡ lời: "Đó là nói đùa cho vui. Chúng ta đều đang lo cho số mệnh của nước."

Lần này là lần đầu tôi biết cá nhân Võ Nguyên Giáp. Trái với tiếng đồn là người róng riết, Giáp đã tỏ thái độ nhã nhặn, có tình cảm nhiều nhưng ý tưởng thì rất cương quyết. Trong hơn ba tuần ở cùng nhau, làm việc cùng nhau, xa không khí sôi nổi ở thành thị dưới đồng bằng, tôi đã nhìn thấy rõ cái bản lệnh đặc biệt của nhà cách mệnh trẻ tuổi này.

Giời tối đã lâu, có lính tới gác ngoài và viên đại uý Pháp tới thăm; ngồi ghế vải nói chuyện nhàn đàm đến khuya mới về. Rạng ngày, ông ta lại đến thăm, hỏi ngủ có ngon giấc không, và cho biết rằng tối hôm qua có tụi lính nhảy dù qua đây chực tới hành hung phái đoàn, cho nên ông ta phải đem lính tới canh và ngồi khuya như thế. Ông ta nói: "Cả đêm tôi ngủ không yên."

*

Đợi cả buổi sáng ngày 17 mà không thấy máy bay tới. Chúng tôi bàn tính việc điều đình. Quá trưa mới ra phi trường.

Một giờ chiều, máy bay lại cất cánh, rồi tiến thẳng hướng Đông Nam. Cũng một Junker, nhưng nghe nói tàu này chỉ bay được 165 cây số mỗi giờ. Trông xuống đất chỉ thấy mông mênh rừng thẳm xám xanh, thỉnh thoảng có vạch đường cong queo sắc bạc bởi dòng nước của sông ngòi. Một lúc gặp bức tường mây trắng xóa. Tàu lắc lư gắng vượt lên cao. Trong tàu ai cũng nôn nao. Muốn nói chuyện phải ghé miệng vào tai mà nói lớn. Hết rừng rậm đến rừng khô, rồi đến cao nguyên cỏ bụi. Máy bay bắt mối được một ngọn sông chảy từ Bắc xuống Nam. Rồi thấy có hồ dài, có đường quanh co. Tàu đâm đầu xuống một quả núi cây, rồi trượt trên một bãi cỏ dốc. Đó là sân bay Liên Khang gần phía Nam Đà Lạt. Đồng hồ chỉ bốn giờ mười lăm.

Mấy người của chính quyền Pháp chực sẵn đó, đón Phái bộ. Hai ba phóng viên báo tiến tới phỏng vấn đoàn trưởng. Trong đó có một cô gái Việt, người đẫy đà, mặc áo dài chấm gót, màu sặc sỡ, bó sát thân. Trông mặt mày vẽ phấn tô son ghê tởm. Chúng tôi suốt một năm nay đã sống trong không khí hồi hộp và trong trẻo, chỉ thấy những kẻ tranh giành độc lập cho xứ sở; mà phút chốc đứng trước cảnh tượng một cô gái Việt hùa theo người Pháp, thì thấy tự xấu hổ cho người mình. Cù Huy Cận đi cạnh tôi, nói nhỏ với tôi rằng: "Việt gian no béo thật!" Rồi đi sau cô. Thấy mình cô vặn vẹo chồng chềnh trên đôi giày cao gót bước trên bãi cỏ, nhà thi sĩ vui đùa nhắc lại bài thơ Le bateau ivre (con thuyền say sóng) của thi nhân Pháp Rimbaud.

Ô tô nhà binh Pháp đưa về Đà Lạt cách sân bay ba mươi cây số. Dọc đường nhận thấy đường và các cầu không bị hư hỏng. Phái đoàn được đưa về khách sạn Langbian, dựng trên đồi cao ngoảnh mặt xuống hồ, trừ đoàn trưởng sẽ ở phòng đặc biệt tại khách sạn sang hơn, là khách sạn Hoa Viên (Hotel du Parc). Bấy giờ, khách sạn mới mở lại, các phòng trống không, thiếu hết mọi đồ dùng. Trời khá lạnh. Thay quần áo ấm rồi xuống họp ở phòng khách, nghe ngóng tin tức.

Thoạt tiên những tin Pháp cho biết đều báo hiệu nhiều sự không hay. Một viên công sứ cũ, phụ trách đón tiếp, cho hay rằng đã dành riêng hai phòng lịch sự nhất ở khách sạn Hoa Viên cho hai chủ tịch Phái đoàn: Nguyễn Tường Tam và Max André, và một phóng viên Pháp nói: "Ngày mai, trước khi Phái đoàn đi chào Cao ủy, tôi xin phép chụp tấm ảnh".

Bấy giờ mới biết rằng Pháp đã thay thế đoàn trưởng và họ đã đặt chương trình hành động mà không hỏi ý mình. Phái đoàn mình có Bộ trưởng Ngoại giao cầm đầu, thì tất nhiên Phái đoàn Pháp ít ra cũng có Cao ủy Pháp chủ tịch. Trái lại họ đã định hạ Phái đoàn mình vào hàng đại biểu địa phương trong xứ Đông Dương và đã đặt Cao ủy trùm lên hai Phái bộ. Sự tranh thủ đầu tiên của Phái bộ ta là giữ vững lập trường quốc tế ngang hàng với Pháp trong khi điều đình, nghĩa là khi chưa quy định tổ chức Liên bang và Liên hiệp. Còn chính quyền Pháp, thì vẫn coi người Việt là đàn trẻ "chơi trò độc lập". Họ cố ý đánh đòn tâm lý đầu tiên hoặc để thử tinh thần chống cự của dân ta, hoặc để làm át thế và ức chế lòng tin tưởng của ta.

Quả như vậy. Sáng ngày sau, 18 tháng tư, chính quyền Pháp tới khách sạn đòi trục xuất Tạ Quang Bửu và một người tên Chi để giúp Trần Đăng Khoa trong sự giao thiệp với người địa phương. Họ lấy cớ rằng các người ấy không có tên trong sổ dự định trước. Đối với Bửu thì họ nhận để ở lại, tuy họ sợ có liên lạc với quân đội kháng chiến ở vùng này. Còn đối với Chi, thì nhất định họ đem đi. Thế mới biết thám tử của họ ở Hà Nội đã cho họ biết rõ nhiệm vụ từng phái viên ta. Tôi còn nhớ rằng trong khi họp bàn đến Hội nghị Đà Lạt và các vấn đề khác ở trong ban Kiến thiết, Võ Nguyên Giáp một hôm ra hiệu cho tôi cùng đi ra ngoài phòng; rồi bảo tôi rằng: "Hôm nay, anh đừng nói gì về những việc quan trọng, vì có kẻ rình nghe". Tôi rất ngạc nhiên và trả lời: "Ở đấy chỉ có người trong Chính phủ và người được Chính phủ đã chọn". Giáp bảo thật tôi rằng: "Có bác sĩ kia, Pháp đã cho lọt vào Đồng Minh hội. Chúng tôi biết chắc rằng những chuyện ban ngày trước mặt anh ta, thì tối phòng Nhì quân đội Pháp đã biết". Tôi im, nhưng cũng chưa tin chắc hoàn toàn. Chuyện trục xuất này chứng tỏ Pháp có tay trong. Rồi sau này, sau ngày chiến tranh Pháp - Việt bùng nổ ở Hà Nội, vào tháng chạp, quả nhiên bác sĩ kia được huy chương và cất làm Hội đồng An dân, nhưng rồi bị ám sát mấy tuần sau.

Đại diện Pháp tới bảo: mười giờ, hai phái đoàn sẽ đi chào đô đốc D’Argenlieu rồi mười một giờ họp toàn thể đại hội. Ta không bằng lòng. Thế là khi chưa bắt đầu hội nghị, hai bên đã cãi găng. Ta nói: "Ông Tam sẽ lên thăm ông đô đốc". Đại biểu Pháp nói: "Thì để cả ông Max André cùng tới một lần".

Ý bên Pháp muốn coi Đô đốc là chủ trùm cả hai phái, mà ta chỉ nhận Đô đốc là trưởng đoàn Pháp mà thôi. Nhưng cũng phải tìm cách hòa giải, bèn đề nghị: "Ông Tam sẽ tới thăm Đô đốc, rồi Đô đốc sẽ cho biết rằng vì bận việc nên sẽ giao quyền lại cho ông Max André cầm đầu phái đoàn Pháp. Trong thông báo sẽ có lời như thế này: M. Tam a eu une première entrevue avec l’Amiral D'Argenlieu. Les deux chefs de délégations ont arrêté en commun le programme de travail des deux délégations. Monsieur l’Amiral a présenté à M. Tam son Remplancant, M. Max André, à la tête de la délégation francaise - Ông Tam đã hội kiến lần đầu với Đô đốc D’Argenlieu. Hai trưởng đoàn đã định chương trình công tác cho hai phái đoàn. Ông Đô đốc đã giới thiệu với ông Tam người thay thế mình, ông Max André cầm đầu phái đoàn Pháp."

Bên Pháp tạm nhận đề nghị, nhưng yêu cầu tất cả phái đoàn ta sẽ tới liền sau đó, vì "Champagne đã sẵn sàng rồi !"

Trong khi bàn luận lôi thôi, Pignon, phái viên chính trị của Đô đốc, tới nói chuyện với Nguyễn Tường Tam. Theo lời Tam báo cáo thì Pignon đã cho hay rằng: Đô đốc nhất định phải giữ danh hiệu Cao ủy, nhưng trong thông báo có thể xưng là Đô đốc Trưởng đoàn Pháp và Cao ủy Pháp. Còn về thông cáo thì cả hai đều bằng lòng mới tuyên, nếu không thì thôi. Pignon lại cho hay rằng Đô đốc mời ăn cơm trưa.

Sự cãi cọ gay go cả buổi sáng làm không khí khá căng thẳng, vì phủ Cao ủy đã cho các nhà báo biết trước chương trình mà họ đã tự định cho công việc sáng nay. Các phóng viên Pháp và Mĩ cứ kèo nèo tại sao không thấy họp toàn thể hội đồng như đã định. Ta chỉ trả lời rằng chưa có dự định gì.

Lúc 12 giờ rưỡi, thấy có tuyên ngôn của Cao ủy trách. Lời rằng:

"Theo tục lệ quốc tế, Cao ủy Pháp, đại diện chính phủ Cộng hòa, đã đợi ông Nguyễn Tường Tam, bộ trưởng bộ Ngoại giao, trưởng Phái đoàn của chính phủ Cộng hòa Việt Nam, lúc 10 giờ 45 phút. Ngoài sự yêu cầu về điển lễ, sự tiếp kiến này đáng lẽ là dịp để giới thiệu cho ông ấy ông Man André, là phó chủ tịch hội đồng quận hạt quận Seine, đại diện bộ Ngoại giao và bộ Binh, đã được chọn để làm chủ tịch Phái bộ Pháp. Phái đoàn của Cộng hòa Việt Nam cũng đáng lẽ được dẫn yết bởi chủ tịch đoàn.

"Bây giờ là 11 giờ 45 phút, các nhân viên Phái đoàn Pháp đã hội họp để đón tiếp các đồng liêu  họ ở Hội phòng.

"Nếu tình trạng này kéo dài, thì chỉ tổn hại cho công tác của Hội nghị. Vậy, Cao ủy ngỏ cùng Bộ trưởng Ngoại giao Cộng hòa Việt Nam, một lần nữa, ý nguyện tiếp ông liền bây giờ để gây một hòa khí thuận lợi cần thiết."

Ta trả lời rằng sở dĩ có sự so le là vì Phái đoàn Pháp không dự định gì trước với Phái đoàn Việt Nam. Nhưng trưởng đoàn Nguyễn Tường Tam sẽ lên thăm Đô đốc, lấy nguyên tắc đoàn trưởng thăm đoàn trưởng. Rồi một giờ chiều, D’Argenlieu tiếp Nguyễn Tường Tam và giới thiệu Max André, và cũng nhận nguyên tắc trong hội nghị không có ai làm chủ cả hai bên, và trong các buổi họp, mỗi bên lần lượt chủ tọa. Một giờ rưỡi, Đô đốc mời ăn ở dinh Cao ủy. Đô đốc đọc diễn văn; Nguyễn Tường Tam trả lời vắn tắt nhưng đầy đủ. Bữa ăn xong, hai phái đoàn trò chuyện rất vui vẻ, như là đã không có chuyện găng co gì. Rồi phát lời tuyên ngôn chung đầu tiên. Rằng:

"Sau khi nhiều chậm trễ trong sự thi hành chương trình Hội nghị trù bị, gây nên bởi máy bay hỏng ở Paksé, ông Nguyễn Tường Tam, bộ trưởng bộ Ngoại giao chính phủ Việt Nam, Trưởng phái đoàn Việt Nam, đã tới nhã kiến Đô đốc D’Argenlieu, Cao ủy nước Pháp, đại diện nước Pháp ở Đông Dương, Trưởng phái đoàn Pháp.

"Cuộc đàm thoại đã triển khai một cách cảm thông và thân thiện tột bậc. Đô đốc đã thết một tiệc, trong bữa ấy hai phái đoàn đã gặp nhau. Cuối tiệc, Đô đốc đã mở lời chào phái đoàn Việt Nam, tỏ tiếc rằng chủ tịch Hồ Chí Minh không thể dự buổi khai mạc công tác; rồi giải thích tầm quan trọng mà Chính phủ Pháp đặt vào Hội nghị Đà Lạt, lại giải rõ ý nghĩa các chữ Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp. Đô đốc cũng đã tuyên bố rằng sự tiếp dẫn tốt đẹp những công tác ở đây sẽ ảnh hưởng đến kết quả tốt đẹp cho hội nghị chính thức ở Paris. Trong khi tặng lời chúc cho hai phái đoàn, Đô đốc đề xướng nâng cốc rượu chúc mừng chủ tịch Hồ Chí Minh và nước Dân chủ Cộng hòa Việt Nam.

"Ông Nguyễn Tường Tam cảm ơn Trưởng phái đoàn Pháp và tuyên bố rằng nhiệm vụ độc nhất của phái đoàn Việt Nam là trù bị cho Hội nghị chính thức Paris. Ông không muốn dự đoán những bàn luận sau này, vì đó là mục đích công tác của hai phái đoàn; nhưng ông chắc rằng định ý của Phái đoàn Việt Nam, cũng như Phái đoàn Pháp, là đem hết tâm nguyện ra làm việc để lợi cho hai nước, nước Pháp và nước Việt Nam tự do trong khối Liên hiệp Pháp theo đúng tinh nghĩa của Hiệp ước mồng 6 tháng 3 năm 1946. Ông bèn nâng cốc rượu, biểu dương vinh dự của hai phái đoàn, chúc Đô đốc mạnh khoẻ và Hội nghị Đà Lạt thành công.

"Sau khi chuyện trò, những đại biểu hai phái đoàn họp lại để bàn soạn lễ khai mạc Hội nghị. Theo lời ông Max André đề nghị, lễ này sẽ cử với trưởng đoàn Việt Nam làm chủ toạ. Đã định rằng mỗi một phái đoàn sẽ sửa soạn trong hôm nay cái sổ kê những ủy ban sắp nhóm và những vấn đề mà mình thấy cần nêu ra.

Một Toàn thể đại hội sẽ nhóm ngày mai, 19 tháng tư, vào chín giờ sáng tại trường Lycée Yersin. Hai phái đoàn nhắm mục đích xáp lại những đề nghị của hai bên và điều hiệp lại."

Thông cáo trên tóm tắt đủ những sự kiện xảy ra ngày đầu mà Phái đoàn ta phải chạm trán với Chính quyền Pháp ở Đông Dương và với Phái đoàn Pháp. Đô đốc D’Argenlieu là một người rắn rỏi, độc đoán, bảo thủ, tự cao, nhưng cũng là rất nhã nhặn. Trong việc tiếp xúc với Phái đoàn Việt Nam, ông bị chống lại. Chắc ông đã tức tối lắm, nhưng không hề để lộ sự giận trong khi tiếp Phái đoàn. Trái lại, tôi có cảm tưởng rằng ông đã hiểu rằng "tụi trẻ con" này không dễ ức chế; cho nên câu đầu ông nói trong buổi tiệc là: "La France prend au sérieux le Vietnam", nghĩa là nước Pháp quan tâm đến nước Việt Nam, với ý rằng coi đó là một nước thật, chứ không phải đó là một sự đùa của trẻ con. Nhưng liền sau đó, ông đã nhấn mạnh vào chế độ chính trị của Liên bang Đông Dương.

Còn Phái đoàn Việt Nam, trong bữa tiệc cũng vẫn tranh đấu. Phái đoàn đã dự định rằng trưởng đoàn sẽ trả lời Đô đốc bằng tiếng Việt để tỏ ý chí độc lập của dân tộc. Khi Nguyễn Tường Tam đứng dậy đáp lời, biết rằng tâm lí Việt vẫn găng, những người Pháp trong tiệc bắt đầu hơi khó chịu. Nhưng liền sau, Nguyễn Mạnh Tường đứng dậy ở cuối bàn, nét mặt tươi cười, dịch lời trưởng đoàn ra tiếng Pháp, một cách chải chuốt, thanh nhã, hùng hồn, thì ai nấy cũng quay nhìn với vẻ ngạc nhiên và thích thú. Không khí khác hẳn. Một phái viên Pháp khen nức nở, quay hỏi tôi dịch giả là ai. Sau khi tôi cho biết đó là một tiến sĩ văn khoa và luật khoa, ông ta bảo đùa với tôi rằng: "Ông ấy Pháp hơn người Pháp, như hầu hết các anh. Chắc điều đình sẽ không khó." Tôi trả lời: "Với các ông thì chắc không khó, nhưng với Chính quyền Pháp không biết sẽ ra sao".

Chiều hôm ấy còn dư thời giờ; một số phái viên đi du lịch thăm cảnh đập nước và nhà thủy điện Angkroet. Chính quyền để ba ô tô cho phái đoàn dùng. Đường sá xấu. Dọc đường nhiều nhà đóng cửa. Ít thấy bóng đàn ông. Chúng tôi có dừng lại thăm làng Nghệ Tĩnh mà chính Phạm Khắc Hoè đã lập, khi làm Quản đạo tại đây. Làng vắng tanh, chỉ còn một ít đàn bà trẻ con.

Tối, kiểm điểm lại công việc hôm đầu, thấy Phái đoàn mình đã làm tròn nghĩa vụ không hao tổn quốc thể, đã biết cương quyết và hoà nhã. Tuy những sự việc tranh đấu không quan trọng về công tác điều đình, nhưng về đại thể, Phái đoàn đã tỏ rõ thái độ của một nước tự do không chịu nhận một điều gì mà mình không cùng dự định đoạt.

Sáng ngày hôm sau, 19 tháng 4, toàn hai Phái đoàn họp ở nhà trường Yersin để lập các ủy ban và định các chương trình nhóm họp.

Phái đoàn Pháp cũng gồm 12 phái viên. Trưởng đoàn thực tế là Max André, một chính khách thuộc đảng MRP, là một trong ba đảng lớn chung quyền tại Pháp, đảng ấy ở về phía bảo thủ, nhất là dựa trên nền tảng đạo Cơ đốc. Chuyên môn chính trị, hoặc đúng hơn là hành chánh, có Messmer, Pignon, Torel, Bousquet. Messmer đã nhảy dù xuống vùng Thái Nguyên ngày 22 tháng 8 với chức ủy viên chính phủ Pháp (nghĩa là Thống đốc Bắc kì trong chế độ thuộc địa) và đã bị công an ta bắt giữ đến tháng 10. Torel nguyên ở trong chính quyền Decoux nhưng đã theo nhóm kháng địch. Pignon là viên cai trị lão luyện cố vấn đắc lực của Cao ủy. Chuyên môn về tài chánh, nguyên có đề tên Bloch - Lainé trong sổ, nhưng sau chỉ còn Gonon. Chuyên môn về kỹ nghệ là hai kĩ sư cầu cống vốn làm việc ở Đông Dương: BourgoinGuillanton. Đặc biệt là Bourgoin đã từng chống Decoux và đã trốn sang Trung Quốc. Chuyên môn về quân sự có tướng Salan là một võ quan đã làm việc phòng nhì lâu năm ở Đông Dương và đã cầm đầu ủy ban điều đình binh bị với Trung Quốc và Việt Nam. Gourou, cựu giáo sư ở trường Sarraut ở Hà Nội về môn sử kí và địa dư và tác giả sách LES PAYSANS TONKINOIS, là chuyên nhân về vấn đề văn hoá. Người thứ mười hai là Clarac, cố vấn về ngoại giao cho Cao ủy. Nói chung thì các phái viên Pháp không phải là những nhà chính trị. Nhưng một phần đã trải qua giai đoạn chiến tranh chống Na-zi và Fat-xit, cho nên cũng có óc chính trị mới một phần nào. Dẫu sao, họ đều là những người từng trải xã giao, cho nên những cuộc bàn cãi tuy gay go nhưng không khi nào gây ác cảm nặng.

Theo thông cáo hôm trước, Nguyễn Tường Tam chủ tọa buổi họp lần đầu, nói mấy lời mở màn, hứa nỗ lực làm việc, tranh luận thật thà. Max André đáp lời cảm ơn và cũng hứa hẹn như vậy. Nhân không khí trịnh trọng khi khai hội, Dương Bạch Mai đề nghị tuyên bố chung ý nguyện đình chiến để hội nghị tiến hành trong không khí hòa bình. Max André ngỏ lời dè dặt. Ta cũng không cố tấn công; Võ Nguyên Giáp chỉ yêu cầu Phái đoàn Pháp chuyển ý nguyện ấy lên Cao ủy. Max André nói khéo rằng mình cũng muốn có đình chiến trong toàn cõi, nhưng Phái đoàn bất lực về việc ấy; nhưng cũng hứa sẽ chuyển ý nguyện lên Đô đốc D’Argenlieu.

Rồi bàn đến sự lập các ủy ban. Có bốn ủy ban: chính trị, kinh tế và tài chánh, quân sự, văn hóa. Trong mỗi ủy ban, mỗi bên đặt một số người, phái viên và cố vấn; một người có thể dự nhiều ủy ban. Trong mỗi một ủy ban, mỗi bên cử một chủ tịch để lần lượt chủ toạ những buổi nhóm.

Ủy ban Chính trị:

Bên Việt có Trừng, Giáp, Mai, Hiền, Huyên, Hữu Tường, Mạnh Tường và Hãn chủ tịch;

Bên Pháp có Messmer chủ tịch, Bousquet, Bourgoin, Clarac, Max André, Pignon, Torel; sau có thêm D’Arcy.

Ủy ban Kinh tế và Tài chánh:

Bên Việt có Bính chủ tịch, Luyện, Hiền, Cận, Trừng, Mạnh Tường, Giáp, Khoa và Đinh Văn Hớn.

Bên Pháp có Bourgoin chủ tịch, Bousquet, Gonon, Gourou, Guillanton, Messmer.

Ủy ban quân sự:

Bên Việt có Giáp chủ tịch, Khanh, Hãn, Bửu, Phát, Cung.

Bên Pháp có Max André chủ tịch, tướng Salan, Messmer, Clarac.

Ủy ban Văn hoá:

Bên Việt có Mạnh Tường chủ tịch, Huyên, Hữu Tường, Cẩn, Hãn.

Bên Pháp có Gourou chủ tịch, Clarac, Guillanton, Pignon, Torel.

Ngoài những người có tên trên đây, mỗi phiên họp, có thể thêm các chuyên viên. Ủy ban chính trị ngày nào cũng họp cào buổi sáng từ 9 giờ đến 11 giờ rưỡi, trừ thứ năm và chủ nhật. Ủy ban kinh tế tài chính thì họp ban chiều. Có ngày họp cả buổi tối.

Trong các buổi họp, có người lấy tốc kí, rồi đánh máy biên bản và phát cho hai phái đoàn. Cũng vì vậy mà trong sổ tay của tôi ít ghi những lời bàn luận hàng ngày. Vả chăng, ai cũng còn nhớ rằng Hội nghị Đà Lạt đã không đem lại một điểm thoả thuận nào quan trọng. Vậy sau đây, tôi chỉ ghi chép lại một vài sự kiện mà tôi đã ghi, chắc vì bấy giờ tôi đã coi là quan trọng đối với chung hoặc chỉ đối với cá nhân tôi. Tôi tin rằng những chi tiết "vụn vặt" ấy tả đúng đức tính, tình cảm đương thời của phái viên và không khí chung của Đà Lạt và Hội nghị.

*

Chiều hôm ấy (20-4), họp ủy ban Tài chánh và Kinh tế. Tối, họp ủy ban Văn hoá. Sáng hôm sau ủy ban Chính trị họp phiên đầu. Trong những phiên đầu, nguyên tắc là mỗi bên đề nghị nhật trình nghị sự, rồi bàn cãi để cùng nhận một chương trình chung. Những vấn đề đưa ra và thứ tự đề nghị tỏ rõ thâm ý của mọi phái đoàn.

Bourgoin chủ toạ buổi họp ủy ban Tài chánh và Kinh tế, nhấn mạnh về sự cần thiết lập một khối chung về Kinh tế, bình đẳng giữa các nước Liên bang và đề nghị các vấn đề:

  1. - Ngoại thương và Quan thuế,

  2. - Tiền tệ, Ngân khố, Hối đoái,

  3. - Tham dự của Liên hiệp Pháp vào sự mở mang kinh tế Đông Dương, Quyền lợi kinh tế Pháp ở Việt Nam,

  4. - Liên quan tài chánh giữa Liên bang Đông Dương và Việt Nam, Bỏ ngân phiếu hiện hành,

 Công nghệ hiện hữu của Pháp ở Việt Nam,

Tham dự của tư bản Pháp vào sự kiến thiết kinh tế Việt Nam.

Gourou chủ tọa buổi họp tiểu ban văn hoá, hứa hẹn nhiều về sự giáo dục và văn hoá và nêu ra những điểm:

    1. Tình hình những cơ sở khoa học lớn hiện có trên địa phận Việt Nam,

    2. Dạy bằng tiếng Pháp trong các cấp giáo dục,

    3. Tham dự của Pháp vào giáo dục tại Việt Nam,

    4. Các trường Pháp tại Việt Nam,

    5. Liên quan về văn hóa,

Viện Viễn đông Bác cổ,

Viện Pasteur,

Viện Bảo Tàng và Thư viện.

Về các vấn đề Kinh tế, Tài chánh và Văn hoá nêu lên trên đây, đại khái ta đồng ý thảo luận, nhưng giữ lập trường căn bản của một nước tự do: nhận, hoặc từ, những điều ước định sau. Nếu nước Pháp tôn trọng quan niệm ấy, thì sự điều đình sẽ dễ dàng, vì ta cũng muốn có sự liên lạc mật thiết với Pháp về kinh tế và văn hóa. Vậy sự điều đình về chính trị và quân sự là cốt yếu và sẽ chi phối những điều đình kia.

*

Ngày hôm sau, thứ bảy 20 tháng 4, ủy ban Chính trị nhóm họp. Messmer chủ tọa, ngồi cạnh Max André. Bên Việt, Nguyễn Tường Tam không dự, vì lẽ chúng tôi đã định rằng đoàn trưởng chỉ dự Toàn thể đại hội mà thôi. Phía ta Võ Nguyên Giáp ngồi cạnh tôi.

Chúng tôi đề nghị ba vấn đề lớn:

1.- Hợp nhất ba kì, kể cả vấn đề gây nên tại Nam Bộ một hoàn khí thuận lợi cho sự điều đình,

2.- Liên lạc ngoại giao giữa Việt Nam và các nước ngoài,

3.- Quan hệ giữa Việt Nam và Liên hiệp Pháp.

Chúng tôi đã cố ý gác vấn đề Liên bang ra ngoài để tỏ rõ ý Việt Nam chỉ nhận một Liên Bang kinh tế mà thôi, vậy nó không đáng đem ra bàn ở ủy ban Chính trị.

Phái đoàn Pháp không chịu và đề nghị những vấn đề sau:

1.- Sự đại biểu ngoại giao của Việt Nam tại các nước ngoài, (ý muốn nói Việt Nam có đại diện ở nước ngoài nhưng không có ngoại giao tự do),

2.- Điều lệ tương lai của Đông Dương,

3.- Tổ chức trưng cầu dân ý,

4.- Liên hiệp Pháp.

Hai bên thảo luận rất găng để giữ đề nghị của mình: vấn đề và thứ tự nêu ra. Ta tranh thủ để được bàn việc Nam bộ đầu tiên. Pháp nhất định không nghe và không nhận đem bàn vấn đề đình chiến; lại cố nài để hai vấn đề Trưng cầu dân ý và Liên Hiệp Pháp về cuối. Lí do sự cố nài ấy là ở Pháp chưa có Hiến pháp để định đoạt thể thức Liên hiệp; vả Cao ủy và thực dân Pháp ở Nam bộ đang vận động mạnh để thành lập nước Nam Kì tự trị. Cuối cùng ta đành phải nhận nhật trình nghị sự như sau:

1.- Liên quan ngoại giao của Việt Nam với các nước ngoài,

2.- Liên hệ giữa Việt Nam với Liên hiệp Pháp,

3.- Vấn đề liên bang Đông Dương,

4.- a) Hợp nhất ba kì. Hỏi ý nhân dân bằng cách trưng cầu.

b) Tạo một hoàn khí chính trị thuận lợi cho các cuộc điều đình.

Về điểm cuối, Võ Nguyên Giáp đã đề nghị hai bên lập tức tìm những phương sách cụ thể và đạt lên chính phủ của phe mình. Messmer bằng lòng rồi hẹn vài ngày nữa sẽ trao đổi chiếu hội về việc ấy.

Buổi chiều hôm ấy, thảo luận sâu về những vấn đề Ngoại thương và Quan thuế. Mục đích Pháp là lập Liên bang mà Cao ủy cầm đầu nắm hết các các quyền định đoạt. Mà Phái đoàn ta thì chỉ nhận những giao kết giữa các nước Liên bang.

*

Ngày mai là chủ nhật, sẽ nghỉ ngơi. Hai hôm đi đường, hai hôm tranh đấu gay go. Về cân não nghe đã mệt. Tối nay mới để ý đến sự sống thường. Các phái viên ở từng một và từng hai tại khách sạn Langbian, phòng rộng rãi và trơ trống. Công nhân giúp việc khách sạn đều là đàn ông Huế hay Nam bộ. Tôi hỏi chơi người dọn phòng rằng: "Anh có làm mật thám cho Pháp không?". Anh ta trả lời: "Dạ!" Đó là tiếng trả lời của người miền Trung, nó có thể có nghĩa là vâng, là có, phải. Tôi và anh ta chỉ cười. Rồi tôi không hỏi thêm gì, chỉ nhờ đi tìm cho một cái ly uống nước. Trong phòng ngủ không có đồ dùng. Muốn đánh giày, cũng không vật liệu và dụng cụ. Khi trở vào phòng anh ta ra vẻ dè dặt lúng túng, nói với tôi: "Chúng tôi nghe nói ở Hà Nội đã có Giấy bạc Cụ Hồ. Ông có đem vào không?. Cho tôi xin một tờ." Tôi lục ví thấy có hai tờ giấy một đồng, giấy xấu, vẽ khá sơ sài ảnh Chủ tịch Việt Nam. Tôi lanh lẹ trao cho. Anh ta vồ lấy với nét mặt tươi cười cực điểm và cảm ơn không dứt. Tôi muốn hỏi về tình hình ở Đà Lạt nhưng coi chừng anh ta sợ ở lâu trong phòng với tôi, nên xin lỗi lui ra, sau khi giấu kĩ hai tấm gấy bạc nhỏ nhàu trong túi áo trong. Trong khi tâm thần khá hoang mang, tôi cảm nghĩ rằng ví anh ta có làm mật thám cho Pháp đi nữa, thì chỉ bất đắc dĩ, chứ tiếng gọi Tổ quốc vẫn chuyển động tấm lòng.

Các phòng của phái viên gần nhau. Tối lại, anh em họp nhau kiểm điểm công việc trong ngày và nhất là bàn công việc ngày sau. Kiểm điểm thì thấy mình đã tranh đấu cực lực, để tỏ thái độ rõ ràng là: Nếu Pháp đừng tìm cách gò buộc Việt Nam về phương diện chính trị và để Việt Nam hưởng những quyền của một nước tự do, thì các sự sáp nhập Liên bang và Liên hiệp không khó khăn gì, và Pháp sẽ chiếm phần ưu đãi về Văn hóa và Kinh tế. Nhưng cảm tưởng chung là: tuy rằng có một vài phái viên Pháp cảm thông ý ấy, nhưng chính quyền Pháp tìm hết cách để bó chặt mình, và thực dân ở đây sẽ lấn hết những điều mà họ đã phải nhận khi họ muốn đổ bộ quân một cách êm thấm lên đất Bắc.

Về chuẩn bị buổi hội họp sắp tới, thì chúng tôi đã qui định một phương pháp làm việc có qui mô và kết quả. Trước hết, mình giả đứng vào địa vị và lập trường phái viên Pháp mà đoán những điểm họ có thể nêu ra và những lí luận mà họ có thể khai triển. Rồi mình tìm chung những lẽ để đối phó từng câu, từng lẽ, để bảo vệ những đề nghị mà mình đưa ra; lại cắt sẵn người nào trả lời câu nào, người nào bảo vệ đề nghị nào. Xong rồi, nếu có thời giờ thì chia tay tập dượt, kẻ làm phái viên Pháp, kẻ làm phái viên ta. Về tranh luận, thì chia công việc, kẻ xung phong, kẻ tiếp hậu, kẻ đưa lí luận "nặng" ra chận trước, kẻ giữ lí luận "bất kì" để làm đối phương lúng túng. Chúng tôi thường dùng tiếng lóng quân sự để trỏ các tranh luận ấy, cho nên đã nghĩ đến... cách thả khói mù khi mình yếu thế để rút lui. Trong phái đoàn có bác sĩ Luyện, người rất vui tính vì có nhiều ý nghĩ, nên khi ổng giải thích, hay muốn đem hết ra dồn dập, làm cho thính giả thường không hiểu ổng muốn nói gì. Chúng tôi thường đùa nói ổng là chuyên môn bắn đạn nhả khói!

*

Sáng chủ nhật 21 tháng 4. Chúng tôi đưa nhau đi thăm thành phố. Đà Lạt vẫn đẹp, nhưng người rất thưa thớt. Khí trời khá lạnh cho nên thành phố ra vẻ ảm đạm e dè. Chưa có chợ búa. Ở khách sạn to mà ăn uống rất sơ sài. Vào làng Việt Nam thì không thấy đàn ông, một ít đàn bà trẻ con ra ý tránh gặp. Sang xóm Chợ, thấy phố đã phần nhiều mở, nhưng hàng hóa ít oi. Nhân dân thấy các phái viên đi qua, đều trương mắt nhìn theo, nhưng không dám tỏ ý gì cả.

Từ khi Phái đoàn lên đây, chính quyền Pháp phòng bị rất ngặt về sự Phái đoàn tiếp xúc với nhân dân. Nghe nói có lệnh cấm dân ở miền dưới lên đây trong hai mươi ngày. Họ cho chừng sáu chục lính kín lên canh dò. Sau khi thấy có nhân viên Phái bộ ta ra tiếp xúc với nhân dân, họ đã đặt ra hai điều lệ cản trở:

Một là tín bài cho nhân viên Phái bộ, ta và Pháp; họ nói cớ rằng làm vậy để ngăn những người không có chân trong Phái đoàn không tới quấy công việc Hội nghị được;

Hai là hạn chế sự dùng ô tô họ cho Phái đoàn mượn. Nguyên từ ngày lên đây, họ cho ta mượn ba ô tô với tài xế để đi lại. Nay họ cho biết rằng các xe ấy chỉ đi trong vòng Đà Lạt mà thôi; nếu ta không viết thư báo trước muốn đi đâu, thì xe sẽ dừng ở ranh giới thành phố.

Nay lại nghe nói vì có Phái bộ lên đây, cho nên có mười người bị bắt thêm ở Dran.

Chiều nay được tin Phạm Ngọc Thạch đến Đà Lạt. Nguyên Thạch có chân chính thức trong Phái đoàn, nhưng không có mặt ở Hà Nội khi Phái đoàn ra đi. Từ khi chúng tôi lên đây, luôn mong đợi. Nhưng thấy thái độ chính quyền Pháp, chúng tôi không hi vọng gì nhiều về sự Thạch có thể đến đây. Khi nghe tin Thạch đã lên, tôi tưởng ảnh đã từ bưng vượt tuyến mà tới. Khi gặp mới thấy cùng đi với bác sĩ TungNguyễn Văn Sâm từ Sài Gòn lên. Thạch là một bạn học với tôi từ khi còn nhỏ. Năm 1943, tôi đã có dịp ở nhà ảnh tại Sài Gòn. Một bác sĩ trai trẻ nổi tiếng, nhà phú hữu, mặt tài hoa, giao du rất rộng trong các nhóm chính trị ái quốc đương thời và cả với một vài yếu nhân Nhật Bản ở Sài Gòn. Tính cương quyết, thích ăn chơi. Chính vì ảnh, nên tôi đã viết bài về Tài xỉu đăng trong báo Khoa học ở Hà Nội. Nay gặp lại Thạch thấy càng cương quyết nồng hậu, tôi rất đỗi vui mừng. Thạch báo cáo về việc kháng chiến hăng hái ở miền Nam và rất tin tưởng vào độc lập và thống nhất của nước. Tung, một bác sĩ, người thấp, mặt tròn, nói rất nhiều, rất hăng, giao du nhiều với chính khách Pháp thiên tả, nên đã lái xe lọt lên đến đây. Còn Sâm thì Trần Trọng Kim đã nói chuyện đến nhiều và thường khen với tôi là người trầm mặc. Vì vậy chính phủ Trần Trọng Kim đã giao cho Sâm chức Khâm sai Nam bộ khi Nhật chịu giao chính quyền ở đó. Tôi chưa từng biết Sâm nên mừng được gặp ở đây. Sâm người to cao, vặm vỡ, coi vẻ rất điềm tĩnh.

Sâm cho hay tình hình chính trị ở Sài Gòn: Trong đám sĩ phu có bốn hạng:

1.- Nhóm chủ trương thuộc Pháp: gồm phần lớn người gốc Pháp.

2.-Nhóm chủ trương tự trị hoàn toàn, tức là nhóm bác sĩ Thinh.

3.-Nhóm chủ trương tự trị hành chánh nhưng họp với ngoài Bắc thành nước Việt Nam, tức là nhóm Nguyễn Phan Long.

4.-Nhóm chủ trương thống nhất, trong đó có bác sĩ Tung.

Ba nhóm đầu sợ thống nhất: nhóm đầu vì là tư bản sợ chế độ cộng sản, nhóm nhì vì sợ không được tham dự chính quyền, còn nhóm thứ ba thì e đã bị cách mạng ruồng rẫy nên sợ cho tính mạng.

Sâm cũng cho biết rằng ở địa phương, tuy Pháp không lập được chính quyền, nhưng ta cũng không kiểm soát được. Quân du kích đến đánh đồn rồi rút lui. Quân Pháp tới thì khủng bố dân, cho nên dân khổ. Nếu trưng ý trong trường hợp này thì có thể thua: ba nhóm đầu không chịu thống nhất, mà dân thì sợ khủng bố nên cũng theo chúng.

*

Sáng thứ hai 22 tháng 4, trước lúc họp ủy ban Chính trị, Max André trao thư cho Giáp nhờ can thiệp cho mấy người bị bắt (?), trong thư có ý dọa. Không khí có vẻ lại căng. Chín giờ, ủy ban họp. Messmer chủ tọa nhắc lại lập trường của hai bên về điểm đình chiến; và nói rằng Phái đoàn không có quyền bàn đến việc đình chiến, và đề nghị giữ mục hiệu Trao đổi chiếu hội (Echange des memoranda).

Võ Nguyên Giáp trả lời dài, tấn công hăng. Đại ý nói: "Bây giờ trong Nam bộ vẫn đánh nhau. Chính quyền Pháp nói đó là dẹp giặc. Nếu nói đó là dẹp giặc thì FFI (quân du kích chống quân chiếm đóng Đức) của Pháp cũng là giặc chăng? Và Hiệp định sơ bộ nói rõ ràng rằng hai bên phải đình chiến. Vậy chúng tôi vẫn giữ yêu cầu ghi vào nhật trình Hội nghị vấn đề ấy"...

Về việc nầy, ta rất có lí. Nhiều phái viên Pháp cũng thấy vậy. Nhưng họ có lệnh của D’Argenlieu phải gạt đi. Messmer không chấp nhận lời Giáp, và bảo lướt qua vấn đề khác. Ta xin tạm dừng họp. Một giờ sau họp lại. Nguyễn Mạnh Tường giảng rõ rằng sự đề nghị của ta theo lời Hiệp định sơ bộ; rằng không phải ta yêu cầu hai Phái đoàn thi hành đình chiến, mà chỉ yêu cầu xét những phương sách đình chiến để đề nghị lên hai chính phủ. Vậy ta yêu cầu nghị sự:

Khảo cứu chung những thủ đoạn sẽ đề cử để chấm dứt lập tức chiến tranh và để gây một hoàn khí chính trị thuận lợi cho những cuộc điều đình.

Phe Pháp không chịu. Torel bảo: "Hiệp định sơ bộ có hai phần: phần đình chiến thuộc về các chính phủ, phần điều đình thuộc về Hội nghị".

Messmer nói thêm: "Chúng tôi không thể bàn về việc này, là bởi phải tuân lệnh . Chúng tôi cũng hiểu rằng phải gây nên một hoàn khí thuận lợi. Nhưng bây giờ chúng tôi nói Không, các ông lại nói , thì không bao giờ xong. Với tinh thần hòa giải, tôi đề nghị đem vấn đề này ra toàn thể Hội nghị ngày sau."

Ta phải nhận. Nhưng cảm thấy Phái đoàn Pháp đã nhận mệnh lệnh phải găng. Chiều, họp lần đầu ủy ban quân sự, tướng Salan chủ trì. Họp trong phòng nhỏ, hai bàn dài đặt đối, hai tiểu ban đối diện. Nhìn sang bên kia, thấy những lon là lon; nhìn lại bên mình, may có ba lon làm sĩ diện! Ngồi đầu, chàng thư sinh vai hẹp đối vị tướng quân cao ngồng. Đây là biểu hiện cho hai binh đội đang đương đầu trên đất Việt Nam.

Ta tấn công; lại nêu vấn đề đình chiến về phương diện kĩ thuật ra làm chủ. Những điểm đề nghị của ta như sau:

1- Thi hành đình chiến;

2- Ngiên cứu cách hợp tác Binh đội Pháp đóng ở Việt nam và Binh đội Việt Nam. Dự đảm  của Pháp vào bộ đội Việt Nam: quân nhu, huấn viên.

3- Binh đội Pháp đóng ở Việt Nam: trách nhiệm, số lượng, phân trí, binh chủng, thời hạn đóng quân, hải cảng và địa điểm đóng đồn.

Phái đoàn Pháp không chối từ điểm đình chiến, nhưng đề nghị để xuống cuối cùng và chỉ chịu bàn đến các vấn đề khác thuộc về địa bàn trên vĩ tuyến thứ 16 (Đà Nẵng).

Thảo luận càng giằng co. Tối đến, Max André lại chuyển cho Nguyễn Tường Tam một lá thư trách rằng có người đã theo Phái bộ lên đây để ngấm ngầm làm chính trị. Không biết họ muốn nói dự định của ta có người phụ trách sự liên lạc địa phương, hay là họ ám chỉ việc bác sĩ Tung đưa Phạm Ngọc Thạch và Nguyễn Văn Sâm từ Sài Gòn lên đây.

*

Sáng thứ ba, 23 tháng tư. Những việc hôm qua là triệu chứng rằng tranh biện sẽ rất gay go. Không biết Hội nghị có thể qua chướng ngại này không.

Quả vậy, Đô đốc D’Argenlieu tư một bức thông điệp nói về cái máy vô tuyến truyền tin mà Phái đoàn ta đã đem lên, và đã dùng trong bốn ngày nay, Thông điệp bảo rằng:"Đài ấy phải có giấy phép của Chính quyền Pháp mới được dùng. Vậy yêu cầu Phái đoàn Việt Nam tạm thôi dùng máy ấy, và chính quyền Pháp sẽ vui lòng đảm nhận sự thông tin giữa Hà Nội và Phái đoàn".

Thật là khéo mỉa mai! Nhưng cũng là rất vụng, vì muốn lập một khối Liên hiệp mà bắt đầu đã gây ác cảm từ trong. Ta cương quyết không nghe. Về sau không thấy Cao ủy phủ yêu sách gì về việc ấy. Chúng tôi phải thán phục các anh giữ trách nhiệm thông tin. Đêm ngày, và nhất là đêm, làm việc không ngớt. Các nghị lục tốc kí hàng ngày đều hoàn toàn tin về Hà Nội. Chính phủ đã theo dõi từng ngày những khó khăn mà Phái đoàn đang gặp và cho chỉ thị cấp tốc. Chắc cơ quan trinh thám quân đội Pháp cũng theo dõi luồng sóng của ta. Giả sử họ muốn phá quấy sự truyền tin của mình thì rất dễ dàng. Nhưng thực ra họ không cần, mà nếu làm thì đã mang tiếng mà không có lợi.

Vì việc đôi bên không hòa thuận về mục Đình chiến, nên uỷ ban dừng họp đợi buổi họp Toàn thể đại hội nhóm ngày sau. Sáng nay chúng tôi ở trong phòng làm việc. Mười hai giờ trưa được tin thình lình Phạm Ngọc Thạch đã bị bắt!

Dương Bạch Mai báo cáo cho Phái đoàn họp cấp tốc biết rằng: Thạch với Mai lúc 12 giờ từ phòng Báo chí tại khách sạn Hoa Viên (Hotel du Parc) ra. Trước cửa khách sạn có hai nhân viên mật thám và một đại uý Pháp đứng chờ. Một viên hỏi Thạch: "Ông có phải là bác sĩ Thạch không?" Rồi nó nói có lệnh đưa Thạch về sở Liêm phóng. Thạch trả lời rằng mình có giấy Chính phủ Việt Nam ủy sai làm sứ bộ. Chúng không chịu thả. Thạch lại nói: "Phải để tôi về báo cáo với Trưởng đoàn đã". Chúng cũng không nghe, và nói: "Nếu ông không bằng lòng nghe và đi, chúng tôi sẽ dùng võ lực ép". Thạch bảo chúng: "Muốn dùng võ lực thì dùng".

Rồi chúng đẩy Thạch lên xe mà đi hút mất xuống Sài Gòn. Sau lại nghe tin Nguyễn Văn Sâm và bác sĩ Tung cũng bị trục xuất. Đà Lạt là đất của ta, mà ta lại bị cấm giao thông với Hà Nội, sứ thần và nhân dân ta lại bị trục xuất. Chính quyền thực dân bấy giờ đã tỏ rõ ý định coi Nam phần từ vĩ tuyến 16 trở xuống không phải là đất Việt Nam nữa. Thế thì điều đình gì nữa! Trong bụng anh em nhất quyết soạn sửa trở về Hà Nội.

Bữa cơm trưa nầy rất buồn rầu. Bực tức không bờ mà phải tỏ bộ hồn nhiên. ?n xong, Phái đoàn họp để bàn cách đối phó. Trưởng đoàn viết thư phản kháng, và điện về báo cáo cho Chính phủ hay. Võ Nguyên Giáp bàn rằng mình phải bình tĩnh trước những hành động khiêu khích của phía thực dân Pháp, và chiều nay vẫn phải họp ủy ban Văn hóa như thường. Tôi đề nghị rằng sẽ đi họp, nhưng lên tiếng phản kháng sự bắt Thạch rồi yêu cầu hoãn buổi họp. Nhưng nghe lời trưởng đoàn, lúc ba giờ chiều, chúng tôi tới dự buổi họp văn hóa, mà không tỏ vẻ gì khác thường. Buổi họp hòa nhã, Gourou có lẽ thấy ta vẫn hòa nhã sau việc Thạch, cho nên cũng rất hòa nhã, ta bằng lòng trong giới hạn nếu điều yêu sách của Pháp không phạm chủ quyền của tự do ta.

Trong buổi họp này Torel đưa vấn đề lấy tiếng Pháp làm công ngữ. Ta phản kháng nhưng nhận rằng tiếng Pháp được ưu đãi bậc nhất. Hai bên ưng thuận thảo chung đề nghị:

1.- Ủy ban văn hóa tuyên ngôn rằng vấn đề dùng pháp ngữ làm công ngữ thứ nhì ra ngoài phạm vi ủy ban;

2.- Phái đoàn Việt Nam tuyên bố rằng Pháp ngữ chiếm địa vị bậc nhất trong các ngoại ngữ.

Tối hôm nầy, chúng tôi nhóm lại bàn kĩ về cách đối phó ngày mai, là ngày họp Toàn thể đại hội: phản kháng sự bắt Thạch, đặt lại đề nghị đình chiến. Nếu bên Pháp chỉ nhận có "trao đổi chiếu hội", thì ta yêu cầu biên bản sự Pháp không chịu ghi nhận vấn đề Đình chiến vào nhật trình nghị sự. Nếu bên Pháp định lập ủy ban hoặc tiểu ban nghiên cứu vấn đề, thì ta sẽ nhận; nhưng để phản kháng sự bắt Thạch, ta không nhận liền, mà xin tạm ngừng họp rồi khi trở vào, xin giải tán buổi họp.

Bấy giờ anh em kiểm điểm tất cả những sự kiện đã xảy ra từ lúc lên đây. Thấy rằng: Chính quyền Pháp bị phái Thực dân Pháp chi phối hoàn toàn, nhưng các Phái viên có phần thức thời hơn, về phương diện duy tâm, cũng có cảm tình với ta. Họ rất nhã nhặn. Tuy lúc tranh luận có lời khó chịu, nhưng ngoài ra thì chuyện trò hồn nhiên và có khi thân mật. Chính đó cũng là một cách ngoại giao khéo của họ, có thể lợi cho sự điều đình. Hầu hết Phái đoàn Pháp chắc không muốn phá hoại cuộc điều đình, tuy rằng ta tình cờ biết chắc có một cố vấn hành chánh và chính trị đề nghị "lập một ngân sách trấn áp rất lớn, đem đày vài vạn người thì Đông Dương trở lại như xưa." Họ cũng đã nghĩ rằng sự định đoạt cũng phải qua hai vai chính của Mặt trận Việt Minh: Võ Nguyên Giáp và Dương Bạch Mai. Cho nên họ đã cố chiều chuộng hai anh, mời mọc thết đãi. Messmer và Bousquet thường nói chuyện với Giáp theo ngôn ngữ của những bạn đồng chí. Mỗi khi có việc khó khăn, họ cũng cố gắng dàn xếp với Giáp để bớt găng. Tướng Salan biết Giáp từ khi điều đình Hiệp nghị sơ bộ, thường tới phòng Giáp và cố giải thích những điều không đồng ý ở nghị trường. Ngoài ra những Phái viên khác cũng có mời mọc nhau. Còn Đô đốc, thì mời mỗi lần hai phái viên Việt và hai phái viên Pháp ăn bữa tối. Vũ Văn Hiền và tôi được mời cùng Pignon và Torel. Ông tiếp rất nhã, nhưng không vồn vã; nói chuyện chung về những chuyện văn hóa, chứ không hề nhắc đến chính trị.

*

Ngày thứ tư 24 tháng 4 là ngày họp Toàn thể đại hội thứ hai. Vốn là để kiểm điểm những sự thỏa thuận giữa hai bên. Nhưng cụ thể thì không có điểm quan trọng nào đã thỏa thuận, mà lại còn thêm những sự xung đột bất thường, như chuyện bắt Thạch. Phái đoàn ta đã chuẩn bị phiên họp kĩ càng, nên vào phòng họp rất bình tĩnh.

Max André chủ tọa, đọc chương trình nghị sự, chỉ có đề nghị Đình chiến đặt ra ngày thứ bảy trước mà họ không chịu bàn. Max André đang trao lời cho Pignon, thì Nguyễn Tường Tam đứng dậy, trịnh trọng nói về chuyện Thạch bị bắt, kể lại rõ ràng sự kiện đã xảy ra. Các đại biểu Pháp đều cúi đầu lấy làm phiền. Tam nói tiếp: "Sự ấy là trái với tục lệ quốc tế. Là người phụ trách an toàn cho đại biểu Việt Nam, tôi phản kháng!"

Max André trả lời: "Nghe nói không phải Thạch đã bị bắt. Vì Thạch đã lên Đà Lạt một cách ngấm ngầm, cho nên đã bị đưa về".

Giáp nói: "Chúng tôi sẽ nêu vấn đề ấy sau này. Nay xin bàn qua vấn đề khác" rồi đem bài diễn văn đã đọc hôm trước trong buổi họp ủy ban Chính trị ngày thứ hai. Max André bảo Giáp hãy đọc lại cho toàn ban nghe. Như trước tôi đã ghi, bài này đả kích thái độ Chính quyền thực dân Pháp một cách kịch liệt, ví Kháng chiến ta với Kháng chiến Pháp trong thời Đức chiếm. Các Phái viên Pháp ngồi nghe, tỏ vẻ khó chịu; nhất là bởi hôm nay có báo chí dự.

Pignon đã đem đề nghị mà Phái đoàn Pháp đã sửa soạn cẩn thận. Đại ý là: "Hai Phái đoàn đề nghị lên hai Chính phủ lập một tiểu bang riêng, không dính gì với hội nghị Đà Lạt, nhưng cũng làm việc ở Đà Lạt, để giải quyết vấn đề Đình chiến và để gây một không khí hòa hảo ở cả năm xứ Đông Dương" Pignon lại thêm rằng đó là nhượng bộ cuối cùng.

Tôi xin dừng họp một giờ. Chúng tôi họp bàn. Tất nhiên ai cũng thấy rằng Chính quyền Thực dân càng ngày càng tỏ rõ thâm ý lập lại chính sách thuộc địa Đông Dương xưa. Nói năm xứ Đông Dương là nói rõ ý phân tán đất Việt Nam xưa ra làm ba, có lẽ từ vĩ tuyến thứ 16 trở lên là nước Việt Nam, Nam bộ là nước Nam Kì, còn khúc giữa (hoặc chỉ vùng cao nguyên) thuộc thẳng Pháp hoặc chính phủ Đông Dương. Xem vậy thì không những Chính quyền Thực dân không chịu đình chiến, mà còn muốn khiêu khích để phá các cuộc điều đình. Sau nửa giờ bàn, ta trở lại tìm các đại biểu Pháp, nhưng vì đã hẹn nghỉ một giờ, cho nên phần lớn đã tan đi.

Đúng giờ hẹn, ủy ban lại họp. Nguyễn Tường Tam xin đình chỉ buổi họp, và không hẹn ngày họp lại. Nhiều phái viên Pháp đã tưởng thế nào ta cũng nhận sự "nhượng bộ" của họ, bây giờ thấy ta xin hoãn mà lại không nói hoãn đến hôm nào. Họ rất bực tức. Gonon hỏi gằn: "Hôm nào họp lại? Phải cho biết liền." Tam trả lời rằng hai chủ tịch sẽ định. Bourgoin hỏi ngày nào ủy ban Chính trị họp lại. Tôi trả lời tôi cũng không hay. Phái viên Việt nét mặt lầm lì nghiêm trọng. Phái viên Pháp ngơ ngác đứng dậy ra về. Cảm tưởng chung của anh em là chúng tôi không thể có hành động khác. Nếu Hội nghị có chấm dứt đột ngột thì thà nó chấm dứt ở điểm đình chiến? Đồng bào Nam bộ sẽ thấy rằng Chính phủ Việt Nam và Tổ quốc không quên họ. Tuy Tam không nói Phái đoàn đợi hỏi chỉ thị của Chính phủ, nhưng bên Pháp và bên ta ai cũng đoán như vậy.

Tâm trạng Phái đoàn ta, thì như thủy thủ một con thuyền chịu gió bão, cảm động nhưng không hoang mang, siết chặt cùng nhau vì đoán sẽ phải qua cơn mưa sa sóng dập. Buổi chiều tối hôm ấy, sau khi anh em bàn việc chung xong. Nguyễn Tường Tam nói:

"Tôi có tâm sự muốn nói ra".

Anh em đều im bặt, hơi ngạc nhiên, đợi. Tam tiếp:

"Khi trước, anh em phái Quốc gia và anh em phái Cộng sản không hiểu nhau. Sau một tuần làm việc với nhau, thấy ai cũng đồng lòng yêu nước. Có kẻ trước mang tiếng thân Pháp, nay cũng đều tranh thủ cho quốc gia".

Tôi không rõ Tam nghĩ đến ai khi nói đến "kẻ trước mang tiếng thân Pháp".

Võ Nguyên Giáp trả lời: "Anh em càng làm việc với nhau, càng hiểu nhau, càng phải đoàn kết."

Tôi nghĩ thầm rằng ví như Hội nghị phải dừng, thì nó cũng vô ích, vì nó đã làm cho các lãnh tụ Đảng phái hiểu nhau. Chính đảng là phương tiện để làm việc dân, việc nước. Đảng nhân có hiểu cho như thế không? Nếu các anh Tam, Giáp thuyết phục được đồng chí mình, thì là phúc cho dân và nước ta.

*

Chiều hôm ấy (24-4), chúng tôi vẫn đi dự ủy ban Văn hóa để tỏ rõ rằng mình không thỏa thuận về chính trị, nhưng vẫn muốn hợp tác về văn hóa. Gourou hôm nay có đem theo Ner đến dự. Cả hai đều là Giáo sư cũ trường Trung học Pháp ở Hà Nội. Tôi đã là học trò của hai người. Trước ngày quân đội Nhật đảo chánh, Ner đã có lúc thăm dò ý kiến một số trí thức ta ở Hà Nội. Đề nghị Pháp muốn ta cam đoan dạy tiếng Pháp trong toàn quá trình Trung học, và một vài môn sẽ dạy bằng Pháp ngữ; nếu có nhiều ngoại ngữ bắt buộc, thì Pháp ngữ đứng đầu. Về nguyên tắc, chúng tôi không thể cam đoan, vì đó là vấn đề chính trị. Nhưng về thực tế, thì chúng tôi đồng ý. Tối hôm ấy, Gourou mời NguyễnVăn Huyên và tôi ăn cơm. Gourou cho biết rằng Pháp sẽ đòi lại Viễn đông Bác cổ, nhưng để cho những nhà khảo cứu Việt Nam dùng; về việc khai quật thì sẽ thỏa hiệp với ta. Nước Pháp muốn mở những viện khảo cứu về mọi ngành ở mọi nơi.

Gourou muốn về Pháp chóng cho nên ủy ban Văn hóa họp luôn, kể cả ngày lễ Phục sinh, 25 tháng tư. Trong những buổi họp ấy, phái viên Pháp đem những đề nghị vụn vặt, như chuyện mở trường, sự cấp học bổng, sự viện trợ cán bộ, giáo sư. Ta thì vẫn nói rằng những chuyện ấy dễ thỏa hiệp, nhưng phải có sự thỏa hiệp giữa hai nước tự do.

Phái viên Pháp hết sức dùng ngoại giao cá nhân trong mấy ngày nầy. Nhất là Giáp rất được săn đón bởi tướng Salan về vấn đề binh bị và Messmer, Bousquet về vấn đề chính trị.

Sáng ngày 26 tháng 4, ủy ban văn hóa họp phiên cuối cùng. Lại tranh luận nhì nhằng những điểm không quan hệ đối với chính trị đại quan. Chiều đến, Võ Nguyên Giáp báo cáo qua về cuộc nói chuyện riêng với Messmer và Bousquet. Giáp tóm tắt rằng: "Họ nói có thể nhượng bộ về Chính trị, nhưng sẽ giằng co lấy Kinh tế, Văn hóa và Quân sự. Họ cũng muốn ta làm sao cho Hội nghị tiến hành ít nhiều; kẻo như thế nầy họ sẽ về Paris mà không được việc gì hết".

Ngày hôm sau thứ bảy 27 tháng tư, không hội họp chính thức gì nữa. Hội nghị hình như đã chấm dứt. Phái đoàn ta họp riêng để trao đổi tin tức. Bùi Công Trừng bàn nên họp hội nghị Toàn thể gấp đi. Nhưng Võ Nguyên Giáp nói để Giáp nói chuyện thêm với Messmer và Bousquet để xem có thỏa thuận được điểm nào chăng, rồi sẽ đem ra Đại hội đồng

Bùi Công Trừng nguyên là một thanh niên cách mệnh bị công an Đông Dương bắt giam khi đang còn rất trẻ. Người gầy yếu, ăn nói nhẹ nhàng, nhưng nghe nói Chủ tịch Chính phủ rất tin yêu. Ảnh là phái viên độc nhất tranh luận bằng tiếng Việt; có Nguyễn Mạnh Tường ngồi cạnh dịch xắp. Trong các buổi họp chính trị, Trừng ngồi cạnh Dương Bạch Mai.

Hai người dáng điệu hình dung trái ngược nhau. Mai cao lớn tráng kiện, tinh thần hùng vĩ, tính nóng như sôi, hình như đã có biệt xưng là "Hổ miền Nam". Trong khi chia việc tranh luận trước buổi họp, thường cử Mai làm xung phong khi tấn công. Nhưng khi không muốn có sự xô xát găng thì, trái lại, dùng Trừng để ăn nói ôn tồn bằng tiếng Việt để giải nồng. Trừng lại có nhiệm vụ "kéo áo" Mai, khi Mai can thiệp vào lúc không định trước hoặc nói hăng quá trớn. Tôi còn nhớ có hôm Mai nổi cơn thịnh nộ đáp lại lời vô lí của một đại biểu Pháp, vung tay, vỗ bàn; Trừng ngồi cạnh kéo áo anh ta. Mai tức quá quay lại mắng cả Trừng; đến quá buồn cười! Khiến dũng khí của Mai thành vô dụng!

Sau khi gặp lại hai thuyết khách Pháp đã nói trên, Giáp trở về báo cáo rằng:

"Hai người ấy cho biết các điều yêu sách của Pháp. Đại lược như sau:

"Về chính trị.- Ta sẽ tự do trong nước. Sẽ trưng cầu dân ý ở Nam bộ. Ta sẽ phải để Pháp chăm sóc đến dân tộc thiểu số: Thái, Mọi vân vân..

"Về kinh tế.- Các công nghệ Pháp có từ trước phải để nguyên. Quan thuế và Hối đoái chung thuộc Liên bang. Cơ quan liên bang cũng có những trách nhiệm về trang bị và bưu chánh.

"Về ngoại giao và quân sự.- Ta sẽ có nhưng trong hàng ngũ Liên hiệp Pháp.

"Về văn hóa - Dễ thỏa thuận".

Thấy vậy, ta hết hy vọng đi đến một thỏa thuận can trọng gì. Nhưng cũng theo đúng chỉ thị của Chủ tịch trước lúc đi: hễ gặp việc không thuận thì đừng nói để hỏi Chính phủ, cứ bỏ qua mà bàn sang chuyện khác. Vậy cũng phải soạn sửa nhóm họp trở lại với Phái đoàn Pháp trong tuần sau.

Trưa thứ bảy tuần này, Max André mời Phái đoàn ăn cơm. Có một viên cai trị người Hòa Lan từ Nam Dương sang dự. Ấy là Broode, người cao to, mắt hiền, chút râu mép, ông nói tiếng Pháp rất thạo. Khi ăn xong, ông ta lại ngồi cạnh Giáp và tôi, và lại nói chuyện khá lâu, xem ý muốn lường trình độ Việt Nam. Tôi có hỏi tình hình Nam Dương mà chúng tôi biết sắp thoát khỏi ách thực dân. Broode cho hay rằng: "Ở Java, Soekarno trước đã theo Nhật, còn Chariar không quá khích, nhưng thanh niên Java đã được Nhật dạy trong ba năm và đã được Nhật cho nhiều khí giới. Bây giờ tình thế rất khó khăn cho chúng tôi. Hòa Lan thì yếu, mà Anh, vì việc Ấn Độ không giúp chúng tôi nữa".

*

Thấm thoắt đã đến chủ nhật lần thứ hai ở Đà Lạt. Hôm nay là ngày 28 tháng tư. Nguyễn Tường Tam bị ốm từ hôm qua, có lẽ bị cảm lạnh. Tôi không biết Tam, trước khi có Phái đoàn Đà Lạt, nhưng cũng biết ảnh là Nhất Linh trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn và nhất là chủ bút những tạp chí Ngày nay, Phong hóa đã vang tiếng một thời. Bấy giờ, ảnh người cao nhưng gầy, mặt dài má lép, chút râu trên mép, đôi mắt to nhưng ra vẻ mệt nhọc hay chán chường. Cử chỉ lễ độ, ăn nói chững chàng, trong buổi xã giao hội họp với kẻ chức trách, hoặc Phái viên Pháp, ảnh có thái độ cử chỉ đoan nghiêm và đúng mức, không làm thẹn chức vụ bộ trưởng Ngoại giao và chủ tịch Phái đoàn Việt Nam.

Tới phòng ảnh thăm, rồi một nhóm anh em đi ô tô đi dạo một vòng để giải trí. Tới hồ Than Thở (Lacs des Soupris), cây cối vẫn um tùm, thông vẫn xanh, hoa vẫn thắm, hình như dửng dưng với những biến cố đau thương đã xảy ra đây.

Đi qua xóm Robinson, phong cảnh y nhiên, nhưng bóng người vắng tanh. Ngồi trong xe, hơi chột dạ. Biết đâu những địa lôi của quân ta chôn đâu đây không tàn sát Phái viên ta!

Về đến Chợ, chúng tôi trả ô tô để đi dạo phố. Người ta trở về khá đông. Phố xá đã mở lại. Chắc phần lớn là những người hoặc giúp Pháp hoặc không sợ tình nghi mới dám trở về và mới được trở về trong lúc này. Tôi vào một tiệm hớt tóc. Trong khi chủ nhân cắt tóc, tôi lân la hỏi chuyện. Người ấy lập tức biết tôi là nhân viên Phái đoàn Việt Nam. Y kể chuyện rằng:

"Tôi người Hà Nội, ở trong này đã lâu. Sau ngày cách mạng, các người ở ủy ban hành chánh ở đây bất lực, nhất là tụi Hà Tĩnh!"

Xong, vào một hiệu bán tạp hóa. Chủ hàng phàn nàn đã bị mất hết hàng hóa, đã bị ta và Tây cướp hết. Y lại cho hay rằng những dân cư Đà Lạt, khi bị quân Pháp đánh lên, nhiều người chạy xuống vùng Ba Lát (Phan Rang) bị chết rất nhiều.

Buổi chiều, Võ Nguyên Giáp, Vũ Văn Hiền cùng tôi bàn việc dự thảo các đề án việc Nam bộ. Sau khi bàn luận viết lách lâu, chúng tôi ngồi nghỉ ngơi. Tôi mới hỏi Giáp về tình hình Nam bộ. Giáp cho hay rằng: "Theo Thạch, thì tình hình nay khả quan. Nhân dân hăng hái cứu nước. Chỉ một số trưởng giả bị Pháp lợi dụng mà thôi. Về binh bị, thì ban đầu, những lãnh tụ các binh đoàn ô hợp chỉ biết tôn chủ nghĩa anh hùng, chiến đấu hi sinh trong những trận chính qui. Vì vậy đã bị tổn thất chủ lực nhiều, rồi sinh ra chán nản thoái chí. Nay binh đội biết theo kỷ luật du kích, cho nên quân Pháp không thể lập lại chính quyền".

Giáp tỉ tê nói chuyện rất thân mật; ngỏ ý tiếc đã không biết chúng tôi sớm hơn. Tuy anh không nói ra, nhưng cũng đoán rằng những thành kiến đối với "trí thức" không đúng. Tôi nhân đó nhắc lại câu chuyện tâm sự của Nguyễn Tường Tam hôm trước và tỏ ý ngạc nhiên trước sự anh em cách mệnh Mác xít hiềm khích với đảng Quốc dân. Tôi đã nói: "Cả hai đảng hi sinh xương máu như nhau hồi 1930, 1931".

Giáp trả lời: "Nếu các anh Quốc dân đảng như Nguyễn Thái Học còn thì sao chúng tôi lại không bái phục. Nay thì khác, có người chỉ dựa tên Đảng, mà làm tay sai cho tụi Đế quốc để diệt Mác xít mà thôi. Với những phần tử Quốc dân đảng ái quốc, chúng tôi vui lòng hợp tác..," Rồi Giáp thêm: "Quốc gia như các anh thì chúng tôi rât quí trọng. Chúng ta hợp tác dễ dàng".

Lại sang tuần khác. Đã đến 29 tháng tư, mà không có chỉ thị gì mới. Sau khi về đến Hà Nội, mới biết rõ chuyện xung đột kịch liệt giữa quân Pháp và quân Trung Quốc ở bờ hồ Hoàn Kiếm tại Hà Nội chiều ngày 28. Bấy giờ bộ đội thuộc tướng Lư Hán còn đóng ở Hà Nội. Vì sự đụng chạm giữa xe nhà binh của Hoa và Pháp, các xe khách của đôi bên kéo tới; rồi hai bên bắn nhau dữ dội, giết và hoại thương nhiều quân nhân cả hai bên. Trong vụ ấy, quân đội cảnh binh ta không can thiệp. Nhưng chắc Chính phủ đã chờ xem hậu quả của cuộc xung đột ấy ra sao, cho nên đã không cho chỉ thị họp Đại thể hội đồng trở lại. Tuy vậy vẫn tiến hành soạn sửa họp các ủy ban.

Sáng thứ hai ấy, ta trao cho Phái bộ Pháp đề nghị về việc Đại diện Ngoại giao, và phản đề án về việc Đình chiến để đem ra bàn ở Đại hội.

Ba giờ chiều, họp ủy ban Tài chính và Kinh tế. Phái viên ta chịu nhượng bộ một vài điểm. Bên ta chịu để hàng hóa và người qua lại tự do trong các nước và qua biên giới các nước Liên bang. Ta cũng nhận sự cần có một cơ quan chung về quan thuế, và một cách độc nhất đánh quan thuế. Bên Pháp kết luận rằng ta đã chịu Liên hiệp quan thuế; nhưng ta cải chính. Tuy vậy, Pháp mừng lắm về sự nhượng bộ của ta, rồi vịn vào đó để buộc ta đi vào lưới chế độ Liên bang rộng. Thấy Phái viên Pháp mừng, Vũ Văn Hiền hơi chột dạ, sợ đã hớ. Nhưng khi về kiểm điểm, thấy về chính trị ta không nhận điều gì có tính cách Liên bang.

Cũng chiều nầy ta nhận được một khẩu điệp của ủy ban quân bị Pháp, chỉ gồm những đề nghị thuộc địa bàn trên vĩ tuyến thứ 16, để tỏ ý rằng phần dưới nước Việt đã vào chủ quyền Pháp rồi.

Chiều tối hôm sau, là ngày thứ ba 30 tháng tư, Phái đoàn Pháp trao lại thông điệp trả lời đề nghị về Ngoại giao của ta, từ chối tất cả đề nghị của ta. Họ vẫn giữ nguyên tắc: Việt Nam chỉ có thủ tục ngoại giao trong khối Liên hiệp Pháp, mà lại phải qua thủ trưởng liên bang nữa. Cảm tưởng chung là tuy phải họp trở lại, nhưng chắc kông thể thoả thuận được một điều gì.

Tâm trạng ai nấy rất buồn. Nhưng cũng phải nén lòng dự các cuộc gặp gỡ ngoại giao.

Đại tướng Juin từ Trung Quốc về Pháp, ghé thăm Đà Lạt. Ông đã được Chính phủ Pháp Phái đi Trùng Khánh để tỏ tình thân thiện của hai nước, và thâm ý là cả hai sẽ đè lên lưng nước ta; như hơn sáu mươi năm trước. Chiều 30 tháng tư, Đại tướng đến Đà Lạt, bèn mời nhân viên hai Phái đoàn đến để gặp trong một tiệc rượu. Khi chúng tôi tới, đã thấy rất đông người, trò chuyện ồn ào. Đại tướng người không cao, to bề ngang, nét mặt thô. Đã bị trọng thương ở tay phải, cho nên phải bắt bằng tay trái. Khi bắt tay chúng tôi, ông lại nghiêng mình rất kính cẩn. Không biết có phải vì ông đã quen lễ ấy khi phải thù tiếp các nhân vật Trung Quốc trong hai tuần vừa qua; hay vì bác sĩ Luyện đã nghiêng mình khi bắt tay ông.

Tướng Salan giới thiệu Giáp với Juin. Giáp cùng Juin nói chuyện khá lâu. Giáp phàn nàn về sự vẫn đánh nhau ở Nam bộ. Juin hứa rằng sẽ nói chuyện ấy với tướng Leclerc và sẽ có sự ngừng chiến; nhưng đó chỉ là lời lễ độ đưa đẩy mà thôi.

Trong buổi hội ấy, tôi gặp Paul Mus, là một nhà khảo cứu về văn hoá Đông phương nhiều và cũng là nhà chuyên môn xã hội học và làm cố vấn tâm lí cho Leclerc. Mus kể chuyện đã được Chính phủ Pháp cho thả dù xuống Đông Dương trước ngày đảo chánh Nhật, và đã cố ý tìm tới gặp tôi, có lẽ vì chuyện liên lạc giữa tôi và tướng Mordant mà tôi đã kể trên kia. Nhưng bấy giờ sự ông ta nhảy dù xuống Đông Dương phải giữ rất kín đối với quân Nhật, cho nên không có dịp gặp người Việt Nam. Sau ngày mồng 9 tháng ba, ông ta lại trốn thoát ra ngoài. Nay lên đây để thay thế Gourou cầm đầu tiểu ban Văn hóa Pháp.

*

Thứ tư, mồng một tháng năm, ngày lễ Lao động của phần lớn thế giới. Tại Đà Lạt cũng nghỉ họp. Nhưng riêng anh em đây cũng họp dự thảo các lời đáp đề nghị Pháp về việc Ngoại giao và về khối Liên hiệp Pháp.

Mười một giờ sáng, toàn bộ của Phái đoàn ta họp ở phòng thường trực để làm lễ mồng một tháng năm, chỉ trừ Nguyễn Tường Tam còn ốm.

Trần Đăng Khoa chủ tọa ngồi đầu bàn. Hai bên tả hữu, ngồi dóng mặt nhau, có Giáp và tôi. Các phái viên khác theo thứ tự khi vào phòng, nối nhau ngồi thành hai dãy dài. Sau một phút mặc niệm đến những anh hùng tử sĩ đã hi sinh cho nước, Giáp mở lời nhắc lại lai lịch lễ Mồng một tháng năm ở nước ngoài và ở Việt Nam. Rằng: "Lễ ấy bắt đầu có ở nước Hoa Kỳ về thế kỷ thứ mười chín. Ở nước ta, lễ ấy bắt đầu được cử năm 1929 tại Vinh; nhưng bị chính phủ Thực dân đàn áp. Đến năm 1937, mới chính thức được tổ chức ở Hà Nội. Đầu hết, đó là lễ của giai cấp cần lao; sau thành quốc lễ của nhiều nước".

Rồi Giáp tỏ bày ý kiến. Đại khái, anh nói cần phải thống nhất về mọi phương diện mới có thể củng cố độc lập. Cuối cùng kết luận rằng: "Hội nghị Đà Lạt sẽ có kết quả hay. Lên đây chúng ta ở chung đụng cùng nhau, hiểu nhau hơn; cho nên sự đoàn kết lại càng chặt chẽ. Chắc khi về Hà Nội, sự hiểu nhau ấy sẽ có ảnh hưởng lớn".

Trần Đăng Khoa yêu cầu cử tọa phát biểu ý kiến. Tất cả ngồi im lặng khá lâu. Giáp bèn bảo tôi: "Anh Hãn nói trước".

Tôi phải đáp lời. Bèn đứng dậy, bắt đầu nói: "Chắc ai cũng nhận xét như anh Giáp, và cũng hi vọng như anh... Hôm nay, ta nên nhớ đến một người vắng mặt..." Nói đến đó tôi thấy cử tọa ra vẻ hơi ngạc nhiên, có lẽ đã nghĩ đến anh Tam vắng mặt, không biết chỉ vì còn ốm hay không muốn kỉ niệm ngày mồng một tháng năm. Tôi nói tiếp: "Nên nhớ đến một người vắng mặt, anh Phạm Ngọc Thạch". Trông mọi người đều đổi sắc mặt, nghiêm nghị ngồi nghe. Tôi lại tiếp: "Anh Thạch đã tự mình lên được đến đây để nhập vào Phái đoàn chính thức của ta. Thế mà lại còn bị trục xuất. Chúng ta ai mà không tức giận. Ngồi đây còn có một đại biểu Nam bộ khác, anh Dương Bạch Mai. Chúng ta yêu cầu anh nói một vài lời. Ít ra nữa, chúng ta sẽ được nghe giọng nói của đồng bào Nam bộ".

Thế rồi Mai đứng dậy, vung tay xoay mình diễn thuyết một tràng dài về địa vị và công trạng giai cấp vô sản. Anh cương quyết kết luận rằng: "Không ai được phỉ báng và đẩy ra ngoài những người vô sản".

Không khí khá nặng nề, vì không ai nghĩ đến vấn đề chính trị đảng phái, tuy rằng nhằm ngày mồng một tháng năm. Nhưng ai cũng đã hiểu biết rõ anh. Dương Bạch Mai, một tay cách mạng bồng bột, trung thành, nồng nàn, mà khi nói hăng thì lời dữ hơn bụng. Vì vậy anh em ai cũng yêu ảnh. Cho đến các người Pháp đã quen không khí Kháng chiến trên đất Pháp, thường không giấu ý mến anh ta.

Đến phiên bác sĩ Luyện đứng dậy bày tỏ những lẽ mà mình đã gia nhập Mặt trận Việt Minh. Bác sĩ nói: "Ấy vì tôi đã nhận xét, thấy chỉ quần chúng mới chịu hy sinh. Nhưng cũng không nên để vô sản dẫn đạo một mình. Đó cũng là bổn phận của trí thức..." Vì lẽ đó bác sĩ kết luận: "Chỉ có dân chủ là phải hơn hết".

Không hiểu vì sao bác sĩ đã bày tỏ những ý tưởng ấy. Có ý trả lời Dương Bạch Mai chăng? Vốn thật, trong Phái đoàn không ai nghĩ đến tranh luận về chánh trị. Những lời phát biểu trên không làm hài lòng cử tọa lắm; nhất là bác sĩ Luyện lại nói ấp úng, dây dưa hồi lâu. Tôi phải nói lảng ra chuyện khác. Tôi đề nghị tóm tắt các công việc đã làm từ lúc lên Đà Lạt để cho mọi người nghe. Nhiều người vì bận, đã không theo dõi các buổi họp hằng ngày. Cuối cùng Giáp kể tình hình trong Nam bộ.

Chiều ngày ấy và cả ngày sau, mồng 2 tháng năm, không hội họp gì. Chúng tôi cũng không ra ngoài, quây quần cùng nhau hoặc riêng rẽ nghĩ đến phiên họp Đại hội ngày mồng ba. Phe Pháp đã trả lời không chấp nhận phản đề nghị của ta. Phái đoàn ta bàn phải nhận đề nghị của họ, nhưng sẽ thêm thắt một vài điều.

*

Thứ sáu mồng 3 tháng 5. Sau chín ngày dừng họp Ủy ban Chính trị và Toàn thể đại hội, nay bắt đầu họp Đại hội đồng để thanh toán vấn đề Đình chiến để có thể bàn đến các việc khác quan trọng trong chương trình nghị sự. Phái đoàn ta cũng hiểu rõ rằng kéo dài hội nghị cũng không đi đến đâu nữa, vì ý định lập Chính phủ Liên bang của Pháp rất cương quyết và chỉ nhận thí cho Việt Nam một vài danh hiệu trống không. Trái lại Phái đoàn Pháp có lẽ tiên đoán ta sẽ tấn công dữ nên cũng đã soạn sửa phản công mãnh liệt. Lại thêm có những sự bất ngờ sẽ xảy ra, nó sẽ làm phiên họp hôm nay náo nhiệt.

Bốn giờ chiều. Trời vừa mưa. Các phái viên tề tựu đông đủ. Các nhà báo ngồi đợi, tò mò; họ ức đoán sẽ có việc gì quan trọng.

Đến phiên Nguyễn Tường Tam chủ tọa. Tam giảng lí do phiên họp Đại hội lần nầy; nhắc lại sự hai Phái bộ không đồng ý với đề nghị đình chiến của đối phương, và cuối cùng Phái đoàn Pháp đã kiến nghị xin hai Chính phủ lập một ủy ban ngoài hội nghị để nghiên cứu vấn đề đình chiến. Tam kết rằng: "Hôm nay họp là để Phái đoàn Việt Nam trả lời kiến nghị ấy".

Nhìn mặt các người Pháp trong phòng họp bấy giờ, thấy đều lầm lì. Không khí nặng nề. Họ sợ hay mong ta chấm dứt hội nghị chăng?

Max André đứng dậy, trịnh trọng nói rằng: "Ba giờ trước lúc này, ông hội đồng tư vấn Trần Văn Thạch vừa bị ám sát tại Sài Gòn. Chúng tôi kính chào linh hồn người quá cố, người đã nối lại con đường bằng hữu giữa Pháp và Việt; và chúng tôi mạt sát những kẻ sát nhân và những kẻ xúi giục chúng".

Không khí phòng hội càng nặng nề. Tin này có lẽ tất cả phái viên ta bây giờ mới hay. Ai cũng có vẻ ngạc nhiên, nhưng đều cúi gầm mặt. Riêng tôi, đã biết Trần Văn Thạch nầy khi cùng ở nhà Học xá Đông Dương tại Paris. Khi còn học Dược khoa, ảnh đã nổi tiếng trong đám sinh viên là một gã ăn chơi sang trọng, nhưng học hành cũng được tốt nghiệp. Tôi không ngờ nay ảnh đã nhập vào nhóm bác sĩ Thinh, để đến nỗi thiệt mạng.

Dương Bạch Mai đứng dậy trả lời, với giọng rành mạch, hùng tráng, sỉ mắng "những người bán nước ở Nam bộ để kéo dài chiến tranh". Mai nói tiếp rằng: "Ở Nam Bộ, nứơc Pháp đang bị lừa dối bởi những kẻ có tham vọng đồ sộ. Nhưng hôm nay là bởi Phái đoàn Việt Nam muốn công việc Hội nghị tiến hành, và muốn tỏ lòng hợp tác với nước Pháp. Vậy Phái bộ Việt Nam nhận lời đề nghị của Phái đoàn Pháp đưa ngày 22 tháng tư; chỉ yêu cầu thêm vào 3 điểm để làm thêm rõ ràng: một là mỗi bên cử ba người vào ủy ban nghiên cứu Đình chiến; hai là sau khi Hội nghị Đà Lạt giải tán, ủy ban ấy sẽ tiếp tục làm việc ở Hà Nội hoặc ở Huế; ba là tại phiên họp đầu, ủy ban sẽ bàn về Đình chiến ở Nam bộ".

Hôị nghị dừng tạm hai mươi phút để hai bên bàn riêng. Có phái viên bên ta muốn, lúc vào hội trở lại, trả lời về việc Trần Văn Thạch, và nên nói: "Việt gian bị giết là đáng". Tôi đáp: "Xin bàn về sự có trả lời hay không. Trả lời thì đã có anh Mai làm rồi. Đã chuyện Thạch trước, lại chuyện Thạch sau; ta nên lờ đi kẻo đối phương dễ tuyên truyền khiến ta khó nói".

Khi trở vào hội, bên ta im lặng. Pignon nói Phái đoàn Pháp ưng thuận những điểm thêm của ta, nhưng "nếu có việc khác cũng quan trọng như vậy thì cũng sẽ phải bàn liền". Phe ta ưng thuận. Ai cũng tưởng việc xung đột nầy, như thế là tạm yên. Nhưng Pignon vẫn trách Chính phủ ta để dân gây nhiều sự quấy rối, giết chóc, phá hoại. Giáp trả lời rằng: "Việc Đình chiến đã thôi bàn ở đây, thì nó sẽ được bàn giữa hai Chính phủ và ở ủy ban nghiên cứu".

Messmer giơ tay xin nói. Rằng: "Từ trước tôi không muốn can thiệp vào việc bàn đình chiến ở Nam bộ. Nhưng vì Giáp đã chọn vấn đề ấy để tranh thủ, thì tôi phải bàn và trả lời."

Nên để ý đến cách xưng hô của Messmer. Ông ta đã nói "Giáp" chứ không nói "ông Giáp". Ấy vì từ lúc tôi lên Đà Lạt, Messmer, với Bousquet đã làm thân với Giáp, bàn luận riêng với nhau nhiều, và có cử chỉ đối với Giáp như bạn thân. Vả chăng, có lẽ Messmer trong thâm tâm không đồng ý kiến với Đề đốc D’Argenlieu về vấn đề Nam bộ, chứng là ông có lúc đã trả lời ta rằng: ông không bàn đến vì phải tuân lệnh. Là một kháng nhân Pháp thành thực có lẽ ông có cảm tình với Giáp thực. Nhưng nếu có cảm tình, thì hôm nay cảm tình cũng hết rồi.

Messmer nói tiếp: "Đây là giấy má quan trọng mà chúng tôi đã lượm được tại Nam bộ. Tôi có cả hồ sơ lớn, có cả nguyên văn. Đây là dịch một vài bài. Về việc đốt kho thuốc súng có giấy của chỉ huy khu 7, Nguyễn Bình, đã ghi rằng "một cảm tử ta đã đốt được kho thuốc súng Sài Gòn". Làm như thế, các anh không nghĩ đến các người sẽ bị nạn ở vùng lân cận. Có lẽ các anh bảo rằng đó là việc xảy ra trước lúc họp Hội nghị ở Đà Lạt. Nhưng đây là một mệnh lệnh khác của chỉ huy Nguyễn Bình nữa. Lệnh rằng: "Để ủng hộ Hội nghị Đà Lạt, có lệnh tổng tấn công".

Giáp trả lời rằng: "Một là, nếu quân đội Pháp không đình chiến, thì quân Việt vẫn phải tự vệ để bảo tồn danh dự và phải bắn trả lại. Nếu quân Việt Nam còn bắn, thì Pháp vẫn đánh lại. Như thế thì chỉ kéo dài sự khủng bố dân, chứ binh sĩ hai bên không thiệt hại gì. Hai là về việc đốt kho thuốc đạn và lệnh tổng tấn công để ủng hộ Hội nghị Đà Lạt, thì chúng tôi không được biết đến. Nhưng sở dĩ có những việc ấy, là vì quân Pháp bắt đầu tàn sát nhân dân. Đây là một vài chứng cứ: trong những ngày 14, 15... tháng tư, máy bay Pháp ném bom giết năm mươi người và làm bị thương một số lớn người, đốt cháy nhiều nhà. Kể ra hết thì vô cùng! Vậy chúng tôi yêu cầu ngừng hẳn đánh nhau".

Max André dàn xếp qua loa. Rồi Nguyễn Tường Tam nói nên bàn sang mục thứ hai trong chương trình nghị sự hôm nay: trao đổi ý kiến về các đề nghị đã trao đổi giữa hai Phái bộ.

Như trên đã kể, trong khi chờ đợi họp buổi đại hội này, hai bên vẫn tiến hành trao đổi những đề nghị Kinh tế và Quân sự. Về mục các tài sản, kĩ nghệ của Pháp hiện có ở đất Việt Nam, Pháp đã đề nghị phải để y nguyên tất cả. Ta đã phản nghị rằng về một vài ngành cốt thiết cho sự sinh hoạt của toàn dân thì chủ nhân cũ phải nhường lại cho nhà nước ta.

Sau lời ôn hòa của Tam, Bousquet lại đại tấn công. Rằng: "Đề nghị ngày mồng 2 tháng 5 của Phái đoàn Việt Nam về các công nghệ của Pháp làm cho Phái đoàn Pháp rất ngạc nhiên. Đó là một thủ đoạn lược đoạt (spolier). Từ bữa sang đây đến nay, chúng tôi gặp gỡ một vài Phái viên Việt Nam một cách thân mật. Chúng tôi đã không ngờ rồi có đề nghị này. Các anh sẽ mất cảm tình của một vài bạn các anh. Cũng thuộc lí tưởng ấy, các anh đã chiếm đoạt Viện Pasteur".

Sự can dự một cách hung tợn của hai ông "bạn anh Giáp" làm tôi khá ngạc nhiên. Họ đã thành thực có cảm tình với anh Giáp mà nay thành thất vọng nên đổi ra ghét chăng? Hay trước họ giả dối lấy tình để nhử rồi nay lật rõ bản tướng chăng? Tôi lại nghĩ: đối với dân Việt Nam, thì những người này là người mới, của nước "Pháp mới". Chắc họ không có những thành kiến xấu của những kẻ thực dân bám hại dân ta từ trước. Vì vậy trong khi hoãn Hội nghị mười lăm phút, chúng tôi đã đoán rằng Phái đoàn Pháp đã dùng một chiến lược tranh luận không đúng mức hôm nay mà thôi. Chắc họ tưởng rằng sau khi Hội nghị sắp bế tắc, thế nào ta cũng tấn công dữ, cho nên họ đã cắt công việc cho những Phái viên chính trị can trọng, từ Pháp gửi sang, ta phản công kịch liệt. Họ đem những sự kiện rất bất lợi cho thanh thế để buộc tội ta đã dùng ám sát, phá hoại, lược đoạt để phá Hội nghị và cuộc điều đình. Họ đưa ra những người mà họ coi là thân tả, để tỏ rằng các tả đảng ở Pháp cũng mất cảm tình đối với ta, và bảo trước rằng đừng mong khi sang Pháp sẽ có các đảng ấy giúp nữa. Họ đã không đoán trước thái độ rất ôn hòa của Phái bộ mình, thái độ mà chúng tôi đã bàn định trước. Vì vậy, họ đã "bắn đại bác quá xa!", theo lời bình luận của anh em. Họ đã làm cho những người nhà báo ngồi nghe cũng ngạc nhiên. Nghe nói có nhà báo Pháp đã viết rằng tụi trẻ kia đã giá ngự, lung lạc, trong khi tranh luận, già giặn như các cụ râu xồm đảng Cấp tiến!

Trong khi nghỉ, chúng tôi lại cất đặt công việc ai trả lời câu nào. Sau khi tái nhập Hội đồng, Trịnh Văn Bính mở đầu cho những câu buộc tội của Bousquet. Bính nói: "Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên lúc nghe ông Bousquet nói đến chữ spolier. Chúng tôi đã đọc đi đọc lại bài đề nghị của chúng tôi, thì tuyệt nhiên không thấy chỗ nào để Phái đoàn Pháp có thể hiểu như vậy. Chúng tôi nghĩ rằng hoặc vì hai chữ cession obligatoire chăng? - nhường một cách bắt buộc - Nếu đúng vì thế, thì xin hiểu câu ấy có nghĩa là cession onéreuse obligatoire - nhượng với bồi thường nhưng bắt buộc - Nhưng thôi! Xin để ủy ban Kinh tế sẽ bàn giải".

Bousquet vẫn ra mặt giận dữ, nói lúng túng mấy câu: "... giao kết như thịt với nĩa! - entente entre le bifteak et la fourchette... Đưa tao đồng hồ của mày rồi tao bảo giờ cho! - donne ta montre et je te dirai l'heure..." Nhưng rồi cũng chịu để sang phiên ủy ban dự định lập lại các Viện Pasteur ở lãnh thổ Việt Nam, rồi tôi nói:

"Việc ông Bousquet đã đề cập là việc Viện Pasteur Hà Nội. Việc ấy như sau. Ngôi nhà viện ấy, nguyên là của chính quyền cũ ở Bắc bộ cho viện thuê. Hiện nay về quyền sở hữu ấy chưa giải quyết. Vả Viện ấy đã bỏ giao kèo làm thuốc. Vì vậy, Chính phủ Việt Nam đã phải tạm chiếm lấy Viện để tiếp tục làm thuốc cho nhân dân. Nhờ vậy, mùa dịch thiên thời năm 1945, đã có đủ thuốc cho cả dân Việt và Pháp ở Bắc Bộ.

"Vả sau mấy lời ông Bousquet đã nói, tôi phải xin bày tỏ ý nghĩ chung của Phái bộ Việt Nam.

"Chúng tôi lên Đà Lạt cốt ý để rèn dây liên lạc lâu dài nối Việt Nam và Pháp. Nhưng chúng tôi phải trọng sự tự chủ của Việt Nam và bảo toàn sự liên hệ kinh tế với Liên bang Đông Dương. Chúng tôi đã mừng được gặp Phái bộ Pháp gồm những vị thuộc phong trào Kháng chiến đã giải phóng nước Pháp. Chúng tôi cũng đã từng mong gặp nhau sớm hơn, trong khi còn hòa bình giữa chúng ta. Lên đến đây, chúng tôi những tưởng được làm việc trong bầu không khí êm đềm và lặng lẽ. Những sự xảy ra tại Nam bộ làm chúng tôi thất vọng, và nhất là sau khi thấy Phái bộ Pháp không thể bỏ qua những kĩ xảo thủ tục để tránh giải quyết vấn đề Đình chiến, mà ai cũng coi là công bình và nhân đạo.

"Vì các lẽ ấy, hội nghị Đà Lạt khai mạc đã nửa tháng nay mà còn nằm trong bầu không khí khó chịu, tuy nhờ sự nhã nhặn của các Phái viên Pháp đã làm nó bớt đi nhiều. Nhờ sự giao thiệp giữa các cá nhân, cho nên công việc điều đình vẫn tiến hành. Nhưng những đề nghị Pháp đã không khỏi làm cho chúng tôi lo. Những điều yêu sách về mọi phương diện, Chính trị, Kinh tế, Quân sự, cho cả đến Văn hóa, sẽ tạo ra một cơ quan nó sẽ bóp chết sự tự chủ mà chúng tôi mới cứu vãn lại.

"Phái bộ Việt Nam đã tỏ thái độ thân thiện và hòa giải. Chúng tôi đã nhận để văn hóa Pháp tự do truyền bá ở đất chúng tôi. Chúng tôi đã nhận nguyên tắc hợp nhất quan thuế; và tuy rằng chúng tôi lấy làm đau đớn thấy kéo dài sự khổ sở cho các đồng bào chúng tôi ở Nam bộ, chúng tôi cũng chỉ đành nhận "một Hội đồng để khảo cứu và đề nghị những phương pháp đình chiến" mà thôi.

"Chúng tôi mong rằng Phái đoàn Pháp hiểu chúng tôi.

"Ừ! chúng tôi muốn đem quyền lợi của một dân tộc có hơn hai mươi triệu người và hơn một nghìn năm độc lập, liên kết với quyền lợi của nước Pháp mới. Nhưng chúng tôi không có quyền tiêu hủy bản lệnh quốc gia của chúng tôi. Đây là một dân tộc mới hồi sinh và chỉ muốn sống. Chúng tôi quyết không thể để tái lập những điều kiện làm cho nó có thể bị bóp nghẹt.

"Phái đoàn Pháp có lẽ trách chúng tôi đa nghi. Không phải thế đâu. Mặc dù những sự xảy ra ở Nam bộ, chúng tôi cũng đã cố gắng gây một bầu không khí tin nhau; mà nếu không có nó, thì không hiệp định nào có thể bền chặt, và tôi lo sợ, "Liên hiệp Pháp quốc" cũng không thể lâu dài".

Tôi đã nói khá lâu, nói thong thả, giọng trầm trọng. Càng nói, tôi lại càng cảm động, giọng lại càng trầm trọng, có lúc như muốn tắt. Nhìn xuống cử tọa, các phái viên Pháp và các nhà báo và các tùy viên, phần lớn cúi đầu. Nguyên những lời suy nghĩ trên, tôi đã soạn trước vì tôi cảm thấy ý chí Chính quyền Pháp ở đây như hồi thuộc địa trước, đã định phá hủy cái quốc gia Việt Nam để không khi nào tái lập lại nữa, cho nên cãi cọ những chi tiết không thể đem đến đâu. Vậy tôi đã đề nghị với anh em để tôi tỏ bày ý nghĩ chung cho Phái đoàn mà cũng là chung cho cả đồng bào. Họa là sẽ có tiếng dội xa hơn cãi cọ chi tiết.

Không khí sừng sõ của Phái đoàn Pháp ban đầu buổi họp đã tan. Max André trả lời hòa nhã về ba điểm. Một là về việc Viện Pasteur thì ông khuyên nên giải quyết cho xong. Ông kể rằng: "Trong hồi Paris bị chiếm đóng, người Đức vẫn kính trọng viện Pasteur, và mỗi lúc họ vào đó, họ cũng cầm mũ ở tay. Vậy nếu đem việc nầy ra quốc tế dư luận, thì chỉ thiệt cho Việt Nam". Hai là "Kĩ xảo, thủ tục", ông nói: "Nếu chỉ vì thủ tục mà thôi, thì Phái bộ Pháp có thể vượt qua khó khăn được. Nhưng về đường thực tiễn thì Phái bộ Pháp không thể giải quyết được". Điểm thứ ba là câu "Cơ quan bóp nghẹt bản lệnh quốc gia của Việt Nam", thì ông nói rằng cơ quan ấy sẽ không bóp nghẹt, nhưng nó cũng không phải chỉ có tính cách kinh tế mà thôi.

Nguyễn Mạnh Tường trả lời Max André về việc Viện Pasteur, trên lập trường pháp luật quốc tế; rồi kết rằng: "Nếu đem chuyện ra dư luận quốc tế, thì chúng tôi cũng không sợ thiệt đến thanh danh", Pignon chêm vào rằng: "Người Pháp đã không làm việc được ở viện, lúc ấy thì lỗi tại ai?" Tường trả lời: "Đừng quên rằng quân Nhật mới đảo chánh chính quyền thuộc địa".

Max André thấy bên Pháp thất lí liền nói: "Chúng ta nên nghĩ đến tương lai. Thôi! Bỏ qua quá khứ" Rồi đề nghị với Tam bế mạc Đại hội. Mọi người đứng dậy ra về. Trong không khí cởi mở ồn ào, có viên giáo sư Davée, tùy viên báo chí Pháp lại gần tôi và ân cần nói: "Tôi hiểu ông lắm. Tôi chắc nhiều đồng bào chúng tôi cũng hiểu". Pignon và Torel cũng cùng lại bắt tay tôi. Pignon bảo: "Ông nói rất hay!" Torel nói: "Ông đã nói giản dị nhưng rất cảm động". Hai ông nầy là hai viên cố vấn chính trị của Cao ủy và là những nhân viên cao cấp trong ngành cai trị thuộc địa. Lời khen của họ nghe ra không phải lời sáo, vì không gì bắt buộc họ phải nói. Sự ấy đã làm tôi mát lòng vì tưởng đã đạt được mục đích ít nhiều; nhất là khi đi ra qua cửa phòng Hội nghị, tướng Salan ngực ưỡn, mắt xanh lạnh ngắt mà cũng khều tay tôi, nắm nhẹ và bảo khẽ: "Chúng tôi hiểu ông".

Tôi thì tự thấy trong người khá mệt, về phòng, kiểm điểm, thấy phiên Đại hội lần này khó cho ta, nhưng các phái viên ta đã làm tròn bổn phận và trả lời cũng đúng mức. Tuy những dấu cảm tình của một vài người Pháp đã làm bớt bực bội, nhưng chúng tôi hiểu rằng nếu không có binh lực và tinh thần đồng nhất chống cự chính sách tàm thực của Thực dân, thì lời nói chỉ là trò suông. Vì vậy, Võ Nguyên Giáp thấy mình cần có mặt ở Hà Nội hơn ở đây. Anh đã ra vẻ tư lự đăm đăm và đang liệu cách cáo về như Gourou đã đi và Max André cũng sắp rút lui.

*

Ngày hôm sau, thứ bảy mồng 4 tháng 5, nghỉ họp, để soạn sửa sự hội họp quan trọng về tất cả những vấn đề Chính trị, Kinh tế, Tài chánh và Quân sự, làm sao cho xong cuối tuần sau. Cuối cùng, Giáp phải ở lại.

Buổi sáng, ngồi thong thả, tôi ôn lại những chuyện cũ của mình. Nhớ lại ba năm trước đây, trong vụ hè năm 1943, tôi đã lên đây dạy khoa Toán học cho một số sinh viên, phần đông người Pháp, dự bị thi vào lớp võ bị Saint Cyr. Hồi ấy là hồi phồn vinh bực nhất cho đô thị Đà Lạt. Không những đô đốc Decoux thích trương thế oai vệ để gây ấn tượng cho người Nhật và dân ta, mà các viên chức cao cấp Pháp lúc bấy giờ không thể hưu hoặc nghỉ ở Pháp, đều lên Đà Lạt. Tuy vật liệu hiếm, mà nhà cửa đang xây cất nhiều, và xây bằng những kiểu đẹp. Lúc bấy giờ có người Pháp hài hước đã gọi Đà Lạt là một "nghĩa địa Voi" - Cimetière des éléphants - vì có truyền tưởng rằng khi những con voi về già, ốm thì tới những nơi độc nhất vắng vẻ để chết tại đó. Ở Âu châu, quân Mỹ đổ bộ lên đất, và thống soái Badoglio đã đầu hàng. Các nước bị Đức, Ý chiếm đã có cơ được giải phóng. Ở đấy, dư luận thầm kín lao nhao. Người Pháp bắt đầu hí hửng, còn người Việt thì vẫn bị công an chính trị thực dân đè áp; và về đời sống, phải cung cấp cho hai bộ đội và hai nhóm ngoại nhân: Pháp và Nhật. Lúc bây giờ, tôi có ghi tâm sự trong một bài Đường luật:

Nhìn xem thế cuộc rối tơi bời

Đà Lạt, ta nào có nghỉ ngơi

Giảng dạy công toi gà ấp vịt

Tri hô chuyện hão vẹt đua người

Lên cao mới thấy trời trong trẻo

Hưởng mát càng thương chốn nắng nôi

Hoa suối, Thông rừng thôi nín trách!

Đợi ngày thong thả trở lên chơi

 

Năm nay đã trở lên Đà Lạt nhưng với trường hợp khác hẳn, và bi đát hơn nhiều. Cho nên khi khuây việc, tôi lại nối mấy vần Cảm khái:

"Thông rừng, Hoa suối, nhớ ta không?

Lỗi hẹn cùng nhau luống ngại ngùng

Non nước còn vương cơn bối rối

Tâm tình đâu đến lúc thung dung

Chào Hoa luống sợ Hoa cười gượng

Ngắm Núi dường e Núi lạnh lùng

Tắc lưỡi giở đem đền nợ nước

Khúc mừng mong có lúc ca chung"

Mà cảnh đô thị Đà Lạt thì đẹp thật, đối với những người quen cảnh đồng bằng thán thán, thì cảnh tượng bày ra trước mắt, khi ngồi trong phòng cao khách sạn trông ra, thật vừa xinh, vừa êm, vừa biến thái. Trông gần thì hồ bày trên đồi cỏ, nhà cửa ẩn nấp trong những lùm cây; trông xa thì những dãy núi cao thấp kéo vòng quanh, thỉnh thoảng màu lục lại xen những rừng thông xanh thẳm. Lối đi đất đỏ quanh hồ rồi ngoắt ngoéo trườn lên đồi cỏ lục chung quanh. Tôi lắm lúc ngồi lâu, thu hình ảnh nước non vào ảo mộng.

*

Bữa cơm tối xong, tôi sang phòng Vũ Văn Hiền ngồi xem buổi Hiền "khảo thí" bác sĩ Luyện. Các việc tài chính tỉ mỉ sắp phải đem ra bàn ở ủy ban trong tuần tới. Hai bên đã trao đổi đề nghị. Phái viên ta, theo lệ, tìm kiếm lí lẽ của đối phương rồi tìm cách đối phó của mình. Như tôi đã nói ở trên, anh em lại chia nhau làm địch, làm thân, mà "tập trận"; đứng giữa lại có trọng tài. Không khí làm việc rất vui, vì nhiều khi vừa đóng tuồng vừa làm việc. Mang danh sai sứ, mà sống với nhau như một nhóm sinh viên, âu yếm nô đùa.

Tối hôm ấy, Vũ Văn Hiền, bác sĩ Luyện và Trịnh Văn Bính đang soạn sửa về vấn đề tiền tệ. Pháp đã đề nghị đồng bạc Đông Dương chung, ta phản nghĩ sẽ có thêm nội tệ, theo Hiệp định sơ bộ. Hiền đóng vai Pháp để tìm bịa đặt câu hỏi của phe Pháp. Luyện đóng vai ta, tìm câu trả lời.

Trong bộ quần áo ngủ lụa mỏng, ngoài còn khoác thêm áo gi-lê, vì trời khá lạnh, Hiền mình béo ổn ển, hình dáng như một nhà tài chính kếch xù xoay ra nghề bán thị lợn quay! Ảnh ngồi, hoặc nói cho đúng thì ảnh nằm giữa trong chiếc ghế bành, hai chân co xếp lên trên ghế. Tay cầm xấp giấy chép những điểm đề nghị của Pháp về Tiền tệ. Trước mặt Hiền, Luyện đứng, mặt trong như trăng rằm, có mấy làn mây đen bôi vệt: đó là hai đường mày và râu. Tóc lung tung, mắt trương trập, miệng ấp úng, đầu nghiêng đi nghẻo lại. Bác sĩ đang bị Hiền hỏi vặn. Vẻ người ông trịnh trọng với cuồng mắt thâm, ăn mặc quần áo chỉnh tề. Nhưng ông đã hóa ra một cậu học trò, học bài tuy thuộc, nhưng đang trả lời lúng túng trước một lão quan trường tò mò thóc mách.

Hiền bắt chước giọng nói của Gonon, một Phái viên chuyên môn kinh tế và tài chánh Pháp mà hỏi dồn rằng: "Về việc các anh đề nghị có hai đồng bạc khác nhau cùng xài, thì theo luật GRESHAM, rồi sẽ ra sao?" Gresham là một nhà tài chính Anh, đã nổi tiếng vào thế kỷ thứ 16; y đã xướng ra định luật tài chính bất hủ nói rằng: "tiền tệ xấu đuổi tiền tệ tốt". Nghĩa là nếu trong một xứ và trong một lúc dùng hai tiền tệ, ví dụ đồng bạc thật và đồng bạc giấy, thì người ta cất giấu tiền tệ tốt và chỉ xài tiền tệ xấu mà thôi; vậy trên thị trường hình như tiền tệ xấu đã trục xuất tiền tệ tốt.

Luyện trả lời: "Chưa biết đồng nào xấu, đồng nào tốt".

Hiền: "Nhưng cả hai đồng cùng lưu hành hay sao?"

Luyện: "Rất dễ trả lời..."

Hiền: "Trả lời đi!"

Luyện: "Không! Chúng tôi đã có cách chỉ để một đồng lưu hành trong xứ mà thôi".

Ý Luyện muốn nói để một đồng, đồng bạc Việt Nam lưu hành trong nước mà thôi; còn đồng bạc Đông Dương thì dùng vào ngoại thương. Hiền càng hỏi vặn, thì Luyện càng nói rằng rất dễ trả lời, mà ông càng lúng túng, cổ càng nghẻo đi nghẻo lại.

Bính, trọng tài ngồi bên cạnh; ăn bận rất chỉnh tề, áo màu đen, quần đen rọc dọc, trông như các vị đại lý tài; mày rậm, mắt to, làm bộ rất nghiêm. Nhưng cuối cùng, Bính không khỏi nhe răng trắng, bưng miệng mà cười. Tôi đứng nghe cũng không thể nào nín cười được. Rồi cả chúng tôi đều cười rinh. Luyện phải phân trần rằng đã bị lúng túng vì Hiền hỏi gấp quá! Bác sĩ Luyện là một người khá tự ái, nhưng rất thành thật đối với người rất nồng hậu. Vì làm thuốc giỏi, gia tư khá. Ông đã từng khuyến khích những nhà tài tử, như họa sĩ, văn sĩ. Nghe nói nhóm Phong hóa, Tự lực Văn đoàn lúc ban đầu được ông giúp rập; và về sau, khi những nhóm chính trị xã hội được công khai, ông cũng đã cụ thể ủng hộ. Sau ngày khởi chiến tranh Việt - Pháp ở Hà Nội, ngày 19 tháng chạp 1946, viên quản ngục Hỏa Lò ở Hà Nội báo cho chúng tôi bị giam giữ ở đó, hay rằng hai cha con bác sĩ đã bị bắn chết, vì có làn đạn từ trong nhà ông, ở cạnh sở Mật thám và Hỏa Lò, bắn ra ngoài...

*

Trong anh em phái bộ, bây giờ Nguyễn Tường Tam đứng địa vị rất khó. Danh là Bộ trưởng Ngoại giao cầm đầu phái bộ điều đình. Nếu phải nhượng bộ những điều mà từ trước trong đảng mình đã gọi là việc bán nước của Việt Minh thì đồ đảng không theo; nếu phải dùng cản lực để che chở độc lập, thì đảng mình bị lẻ loi; mà nếu muốn bám vào sức quần chúng thì phải tranh thủ với Mặt trận Việt Minh, như thế cũng không làm được. Vì thế tuy ra Hội trường, ảnh làm trọn phận sự, nhưng ảnh ít dự vào những sự soạn bàn. Có hôm tôi sang thăm ảnh bị ốm. Tôi nói đến chuyện chính trị, thì ảnh nói: "Những việc chính trị, thôi để các anh làm. Còn tôi thì về văn hóa mà thôi".

Hôm nay, ảnh ốm đã khỏi. Mặt gầy, trán cao, mắt lố. Chút râu trên mép chìa ra trước làm cho cằm càng kéo lại sau. Tôi lại thăm ảnh. Sau khi trò chuyện về chính trị, Tam nói:

"Tôi có câu chuyện triết lí. Lúc ban chiều, tôi một mình uống trà. Một con thiêu thân đớp tới, hút giọt nước đường; trông bộ khoái lắm, quắp râu nầy rồi quắp râu kia. Thình lình có một con nhện nhảy tới vồ thiêu thân".

Tam lại tự hỏi: "Vì có điều gì mà nhện lại ăn thiêu thân, chứ không cùng thiêu thân uống nước đường!?"

Tôi ngồi lặng nghe, nhưng không dám hỏi ảnh đã nghĩ đến sự đảng tranh hay đến sự Việt Pháp tương tranh.

Tam lại kể rằng:

"Khi tôi đau, nằm trong giường, dưới chăn, có lúc co một chân; đầu gối đội chăn lên, trông như núi Fuji ở Nhật. Co chân kia nữa, lại thành hai núi. Rồi dựng bàn chân lên, thành ba núi. Hút thuốc phà hơi, trông thật như mây tỏa trên ngọn núi".

Ảnh đang nằm trong giường, bèn tái diễn thực hiện câu chuyện kia: núi Phú Sĩ, cửa Thiên Môn, núi Ba Vì, mây cuốn la đà. Con mắt mệt mỏi của anh đã theo cơn mộng. Tôi phải nghĩ ảnh nhiều trí tưởng tượng mà thật là nhà thơ.

Ảnh thường cũng hay nói khôi hài, một cách ngộ nghĩnh. Một hôm tôi đến thăm bệnh tình. Thấy có mấy anh em Phái đoàn ngồi nói chuyện bông đùa, rồi trở sang nói chuyện binh bị: Tam điềm đạm thong thả lí luận, rằng:

"Muốn mạnh, phải có súng. Muốn có súng, phải có tiền. Bây giờ thì ta không có tiền, thì phải làm bạc giả. Như vậy thì lôi thôi. Chi bằng...làm súng giả!

Vậy ra sắc lệnh: Mỗi nhà phải sắm vài cây súng giả".

Cả tọa cười ồ, mà ảnh chỉ cười hơi hơi trên cặp môi thâm.

Câu chuyện ngỗ nghĩnh ấy thật đúng với trào phúng báo Phong hóa ngày xưa. Trong trường hợp bấy giờ, ảnh đưa ra làm vui nhưng cũng mỉa mai lắm. Nghe những câu chuyện của ảnh, tôi đã hiểu, một phần nào sự xung khắc giữa những người Mác-xít với ảnh.

*

Trưa thứ bảy mồng 4 tháng 5 ấy, nhân Max André về Pháp để ứng cử quốc hội, Phái đoàn ta đãi tiệc Phái đoàn Pháp để đáp bữa mời khi mới tới Đà Lạt. Đặt bàn dài trong phòng khách sạn Hoa viên (Hotel de Parc). Bữa cơm dọn món Việt Nam. Món chả giò rất được hoan nghênh. Các Phái viên Việt, Pháp ngồi xen nhau: tôi ngồi giữa tướng Salan và kĩ sư cầu cống Bourgoin. Đôi bên nói chuyện ồn ào và rất vui vẻ. Nhóm các anh Tam, Giáp ngồi giữa với Max André, Messmer bông đùa cười rất hồn nhiên. Thấy quang cảnh không ai dám đoán những người trong cuộc đã vật lộn hăng trong hội trường và biết đâu, nếu Hội nghị thất bại, sẽ thành những kẻ cừu địch.

Ngày hôm sau, chủ nhật mồng 5 tháng 5, là ngày dân Pháp bỏ phiếu trưng cầu dân ý về hiến pháp của nước Pháp mới. Ở Pháp, dư luận đang sôi nổi giằng co. Chính vì không đồng ý với Quốc hội, hiến pháp mà tướng De Gaule đã từ chức thủ tướng từ ngày 20 tháng giêng. Trong tiệc, các Phái viên Pháp nói chuyện về việc trưng cầu dân ý rất nhiều. Không hiểu ai bắt đầu, mà nhiều đại biểu Pháp đã nói lớn mình sẽ bỏ phiếu ra sao. Max André nói sẽ bỏ phiếu MRP, Messmer nói sẽ bỏ phiếu Xã hội vì tin tưởng, Salan cũng nói bỏ phiếu Xã hội và tin tưởng vì kỉ luật. Không ai nói bỏ phiếu Cộng sản. Nhiều người bỏ phiếu Xã hội. Sự ấy không lạ gì. Bấy giờ đảng Xã hội mạnh nhất ở Pháp. Thủ tướng Gouin ở Paris thuộc đảng ấy.

Khi gần xong tiệc, Tam đứng dậy nói mấy câu chúc Max André về, đi đường bình yên, và về Pháp sẽ được trúng cử. Ai cũng hân hoan; nếu không thành thực thì cũng vì xã giao. Max André mở miệng trả lời. Sau một câu ngắn ngủi cảm ơn, ông bắt sang chuyện điều đình rồi nói:

"Những người đã xúi giục giết Trần Văn Thạch là kẻ sát nhân. Phái đoàn Việt Nam chớ có ảo vọng về sự điều đình ở đây nữa. Nước Pháp đã nhường nhiều. Nước pháp bây giờ không phải là nước Pháp thời Munich đâu..."

Ai nghe cũng sửng sốt. Trong bữa tiệc mà mình là khách, là chủ tịch của một Phái bộ đại biểu một nước có tiếng thanh nhã như nước Pháp, sao lại có cử chỉ ngôn ngữ lạ lùng như thế? Phái viên Việt Nam tức tối nghẹn ngào, nhưng cũng làm ngơ nói sang chuyện khác. Chúng tôi cũng biết rằng Max André là người thân tín của các đại tư bản thực dân, đảng viên đảng MRP, đại diện của bộ trưởng Ngoại giao Bidault rất bảo thủ về chính trị và rất có óc thực dân. Tuy bên Pháp, đảng cộng sản tham dự chính quyền, nhưng họ cũng chẳng rộng rãi gì hơn Phái bảo thủ. Mà chính những người đồng chí trong Chính phủ Việt Nam cũng đã biết phải tự liệu lấy, chứ không mong gì họ giúp. Nhưng bấy giờ trong nội bộ chính phủ Pháp, thủ tướng Gouin đang xung đột với các bộ trưởng Cộng sản. Dưới áp lực của viện trợ Mỹ, ông đang ép họ phải từ chức. Phái viên Pháp biết rõ những những điều ấy, cho nên Max André mới có thái độ như trên.

Sáng hôm sau chủ nhật mồng 6 tháng 5, có cuộc họp riêng. Max André trao cho Giáp một bức thư để chuyển cho cụ Chủ tịch Việt Nam. Bức thư là một tuyên ngôn với giọng trịch thượng tột bực. Thư rằng:

"Nước Pháp Mới không tìm cách đô hộ Đông Dương, nhưng nhất quyết có mặt tại đó. Không cho rằng công cuộc của mình ở đó đã xong. Không chịu từ bỏ nhiệm vụ văn hóa của mình. Tự thẩm rằng chỉ có mình là có thể đảm bảo sự kích thích, sự điều hòa về kỹ thuật, kinh tế, ngoại giao và phòng thủ. Cuối cùng, bảo vệ quyền lợi tinh thần và vật chất của những dân nước mình.

"Làm các việc này mà vẫn kính trọng hoàn toàn bản lệnh quốc gia và với sự hiệp tác cần mẫn và hiếu hữu của dân Đông Dương".

Đà Lạt ngày mồng 5 tháng tư (có lẽ tháng 5) 1946

Kí tên: MAX ANDRÉ

Nguyên Pháp văn:

La France Nouvelle ne cherche pas à dominer l’Indochine.

Mais elle entend y demeurer présente. Elle ne considère pas son oeuvre comme terminée. Elle refuse d’abdiquer sa mission culturelle. Elle estime qu’elle seule est en mesure d’assurer l’impulsion et la coordination de la technique et l’économie, de la diplomatie et de la défense.

Enfin elle sauvegardera les intérêts moraux et matériels de ses nationaux.

Tout ceci, dans le plein respect de la personnalité nationale et avec la participation active et amicale des peuples indochinois.

Dalat le 5 Avril (sic) 1946

MAX ANDRÉ

Tuần cuối hội nghị Đà Lạt bắt đầu từ ngày mồng 6 tháng 5. Trong tuần phải bàn qua hầu hết các điểm lớn đã nêu ra từ đầu. Ủy ban chính trị, thứ hai bàn về Ngoại giao, thứ tư bàn về Liên hiệp Pháp, thứ sáu về liên bang Đông Dương và ngày cuối, thứ bảy, 11 tháng 5, thì bàn về dân Thiểu số và vấn đề trưng cầu dân ý. Còn hai ngày, thứ ba mồng 7 và thứ năm mồng 9, thì dành cho ủy ban quân sự và ủy ban tài chính và kinh tế.

Việc đình chiến đã bị gạt ra, các phiên họp nầy đều tiếp tục êm đềm hơn, chỉ trừ hôm cuối. Nhưng lập trường hai bên vẫn giữ khác hẳn. Chung qui vẫn chỉ là những buổi đấu khẩu giằng giai cho đến lúc hai Chủ tịch ban kí nhận "đồng ý về những điểm không đồng ý" mà thôi.

Về Kinh tế và Tài chính, Hiền, Luyện, Bính bàn cãi rất hăng. Nhưng tôi không dự buổi họp nầy, cho nên tôi không ghi vào sổ tay.

Về buổi họp ủy ban quân sự, vẫn như mọi lần, phần lớn là một buổi hội đàm giữa Giáp và Salan. Thỉnh thoảng Tạ Quang Bửu xen vào ít câu. Về nội dung, không tiến được bước nào lớn, ngoài sự nước Pháp sẽ huấn luyện, trang bị quân đội Việt Nam. Nhưng ý của Phái đoàn Pháp là sẽ làm qua Liên bang Đông Dương. Về các cứ điểm trên vĩ tuyến thứ 16 thì có thể thỏa thuận. Còn dưới vĩ tuyến ấy thì Salan không chịu nói đến.

Những điểm về chính trị là quan hệ hơn hết. Họp ba hôm mà cũng phải bỏ qua nhiều vấn đề. Phái đoàn Pháp đã cố ý để vấn đề Trưng cầu dân ý về Thống nhất vào cuối cùng, hoặc họ mong không có thời giờ bàn lâu tới; hoặc họ biết thế nào Hội nghị cũng bị tan vỡ nếu đem điểm ấy ra sớm hơn.

Vấn đề Ngoại giao được đem bàn ngày mồng 6 tháng 5. Là một buổi đấu khẩu giữa Clarac và Nguyễn Mạnh Tường, thỉnh thoảng có Pignon và Hiền xen vào một ít. Clarac bình phẩm dài về đề nghị ta. Tóm tắt đã nói rằng: "Các anh đòi độc lập hoàn toàn. Nhưng đừng quên rằng Hiệp định mồng 6 tháng 3 không có tính cách quốc tế, bởi vì nước Pháp đã được quyền trở lại đây, mà nước Pháp chỉ nhận lời nhường lại cho Việt Nam một ít quyền mà thôi; đó là quyền tự trị. Vả Liên bang Đông Dương là một Liên bang chính trị, chứ không phải liên ban kinh tế. Ấy vì hai phần tử kí ước - parties contractantes - là hai quốc gia, tức là hai cá nhân chính trị, cho nên Liên bang ấy là chính trị. NếuViệt Nam được có chính trị ngoại giao riêng, thì nó làm hỗn loạn ngoại giao của Liên hiệp Pháp... Tuy chính phủ Việt Nam đã vận động để các nước ngoài nhận, nhưng chưa ai nhận cả".

Clarac đã ngụ ý đến bức điện mà chính phủ ta đã gửi cho Tổng thống Mỹ báo tin Hiệp ước mồng 6 tháng 3 và yêu cầu Mỹ nhận Việt Nam là một nước tự do. Tôi còn nhớ rằng trước lúc có Hiệp định ấy, đài phát thanh Mỹ đã truyền lời tuyên bố của thứ quốc vụ khanh Hoa Kỳ (hình như tên là Vincent), bằng tiếng Pháp, rằng: Les Etats-Unis ne mettent pas en question les droits de la France en Indochine (Hoa Kỳ không chối cãi gì đến quyền của Pháp ở Đông Dương). Vì vậy Chính phủ ta gửi bức điện này để bảo rằng Việt Nam cũng là một nước.

Sau nửa giờ nghỉ, Mạnh Tường trả lời Clarac. Tóm tắt rằng: "Hiệp định mồng 6 tháng 3 có tính cách quốc tế, vì là một qui ước giữa hai nước tự do. Sự các nước chưa nhận Việt Nam không làm cho Việt Nam không có tính cách quốc tế. Còn nói rằng vì hai quốc gia, cá nhân chính trị, kí nhận Liên bang thì Liên bang phải là chính trị, như vậy thật là vô lí. Nếu đúng như thế, thì hai quốc gia kí với nhau một hiệp ước kinh tế, hiệp ước ấy sẽ biến ra chính trị hay sao? Còn việc liên hiệp, không phải vì vào Liên hiệp mà Việt Nam mất quyền ngoại giao. Còn có những nước khác cũng ở trong Liên hiệp khác, mà vẫn có ngoại giao.

"Sự cốt yếu là làm cho ngoại giao hai bên đi đôi cùng nhau. Khi Việt Nam đã có ngoại giao rồi, thì có thể dung hòa với ngoại giao Pháp... Bây giờ chúng ta như hai trai gái sắp cưới nhau mà vẫn cãi nhau. Cuối cùng, chàng trai lại bắt cô gái mang cái "đai bảo trinh" hay sao!?"

Các Phái viên Pháp cười ngất nga ngất nghẻo. Clarac đáp lại một vài câu lúng túng.

*

Ngày mồng 8 tháng 5 họp bàn về vấn đề Liên hiệp Pháp, mà ngày hôm trước cuộc trưng cầu dân ý ở Pháp đã không nhận Hiến pháp mà Quốc hội Lập hiến đã soạn, ưng thuận và trình bày. Dự án Hiến pháp vừa bị bãi bỏ, tất nhiên gồm Hiến chương Liên hiệp Pháp. Vậy thật ra không ai biết Liên hiệp Pháp là gì. Chính quyền Pháp đã phái D’Arcy thay thế Max André. Trong buổi họp nầy, D’Arcy đã can thiệp nhiều và trình bày Liên hiệp Pháp theo Hiến chương vừa bị chối từ: "Liên hiệp Pháp sẽ gồm các nước thuộc địa và bảo hộ cũ, có Hội đồng tối cao Liên hiệp là hội đồng tối thứ hai của nước Pháp. Nước Pháp có cao ủy đại diện ở các nước".

Mạnh Tường chỉ nhận tính cách liên lạc quốc tế giữa Pháp và Việt Nam, tuy Việt Nam vào liên hiệp, vì có hiệp định giữa hai nước tự do. Messmer trả lời rằng sự liên lạc ấy chỉ có tính cách hiến pháp tức là nội qui. Tường nói Việt Nam chỉ nhận Liên hiệp văn hóa, Kinh tế và binh bị mà thôi.

D’Arcy nêu ra những nguyên tắc của Liên Hiệp: trọng nhân quyền, phụ nữ quyền, cá nhân quyền. Bousquet nhấn mạnh về vấn đề cố vấn và kĩ thuật gia dùng trong các nước Liên hiệp. Cần đến những người này thì phải nhận người Pháp trước. Messmer thêm: nhất là những cố vấn quân sự. Giáp nhận nguyên tắc, nhưng nói: "Việt Nam có quyền từ chối và chọn lọc, và nếu không có người đảm đương thì có thể dùng người ngoài". Phái viên ta kết luận rằng Việt Nam không chịu vào một Liên hiệp tiên tạo, và có quyền dự bàn hiến chương Liên hiệp ấy.

*

Vấn đề Liên bang Đông Dương là vấn đề then chốt của Phái đoàn Pháp. Qua Liên bang, chính quyền thực dân Pháp sẽ quản trị Đông Dương như xưa, với một vị Toàn quyền đổi tên ra Cao ủy, và các công chức chuyên môn cao cấp họp thành một thứ nội các Liên bang chỉ gồm những quốc vụ khanh không trách nhiệm chính trị, và chỉ trách nhiệm trước Cao ủy. Sẽ có một hội đồng Liên bang, nhưng Cao ủy không có trách nhiệm trước Hội đồng. Torel cho biết rằng Cao ủy không làm chủ tịch Hội đồng. Chủ tịch sẽ được bầu bởi Hội viên. Những Hội viên sẽ chọn thế nào thì không rõ, nhưng dẫu sau thì cũng có trách nhiệm biểu quyết về ngân sách, pháp luật của Cao ủy lập ra, nghĩa là chỉ có trách nhiệm cố vấn mà thôi.

Phái đoàn ta đã tỏ ý từ đầu rằng không nhận một Liên bang chính trị, và chỉ nhận một Liên bang kinh tế mà thôi. Bourgoin trả lời rằng trong hoàn cầu, không có thứ Liên bang như vậy. Muốn làm cho ta bớt sợ, ông lại bảo rằng Liên bang không có chính phủ; chỉ có những vụ trưởng mà thôi, chứ không có bộ trưởng.

Chúng tôi nghĩ rằng liên bang như vậy lại còn chật hơn cả một Liên bang chính trị trong đó chỉ có dân trong nước Liên bang dự quyền. Liên bang này chỉ là một Liên bang hành chính trong đó người cầm quyền hành chính lại không phụ thuộc vào Liên bang. Cãi cọ cũng vô ích. Vả thời giờ còn rất ít, mà chúng tôi muốn bàn cãi về vấn đề Thống nhất một cách rộng rãi. Tôi bèn nói rằng chúng tôi chỉ đặt một số câu hỏi để thương xác một vài điểm, rồi báo cáo lên Chính phủ. Còn sự bàn luận thì để Hội đồng Paris.

Trong mục Liêng bang, Phái đoàn Pháp còn nêu một điểm rất sâu hiểm là vấn đề bảo vệ những dân Thiểu số, nghĩa là về thực tế, là sự quản trị vùng Thượng Tây Nguyên ở Trung bộ và cả các vùng cao bọc Trung du Bắc bộ. Nhưng không còn thời giờ, họ đề nghị để lại hôm sau.

*

Hôm sau, thứ bảy, 11 tháng 5, là ngày cuối cùng của Hội nghị Đà Lạt. Cũng là ngày mà Phái đoàn Pháp chịu nhận đem vấn đề Thống nhất Ba kì ra Hội nghị. Ta đã thấy Chính phủ Pháp không chịu để Việt Nam độc lập. Còn về vấn đề thống nhất thì sao? Chúng tôi vẫn biết rằng Chính phủ Pháp vẫn giữ bí thuật thực dân "chia để mà trị", mà họ đã dùng, nhất là ở trên đất Việt Nam. Nhưng chúng tôi cũng cố gắng đánh thức những người mê muội và những kẻ vong bản phiêu lưu phụng sự chính sách thực dân ấy.

Từ tám giờ sáng chúng tôi đã hẹn nhau sớm tới phòng làm việc tại Khách sạn Hoa viên để bàn riêng, cắt công việc trước lúc vào hội. Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên và tôi bàn đề nghị để các Phái viên gốc Nam bộ, Hồ Hữu Tường và Dương Bạch Mai can thiệp nhiều và bảo tôi, là phụ trách tiểu ban Chính trị, nói cuối cùng. Nguyên, khi thảo vấn đề Trưng cầu dân ý, tôi đã bàn với anh em  rằng: "Mình phải nghĩ đến sự thực hiện. Mà thực hiện thì Nam bộ bị người Pháp chiếm cứ với một binh lực khá mạnh, cho nên họ dễ lung lạc mà dùng nhóm Nam Kì tự trị. Trong bọn người này, tất nhiên có tụi Việt gian vì lợi riêng mà làm tay sai, nhưng cũng có những phần tử hoặc sợ Cách mạng vì tài sản, vì tính mệnh, hoặc đã bị những hành động quá khích của Cách mạng khi khởi đầu làm tổn thương đến người thân, ruột thịt người ta. Chính cụ Chủ tịch cũng đã nói: con dân một nước có người tốt người không, như bàn tay có ngón ngắn ngón dài. Vậy ta nên đề nghị một phương sách trưng cầu mà tất cả có thể nhận được. Vậy ta đề nghị rằng cuộc Trưng cầu dân ý sẽ tổ chức ở Nam bộ bởi một cơ quan hành chánh lâm thời gồm ba mươi người Việt Nam. Chính phủ Việt Nam chỉ cử mười người, Chính quyền Pháp cử mười người. Còn mười người nữa thì theo thỏa thuận của hai bên".

Phái đoàn ta đã bằng lòng đề nghị ấy, mà ta đã trao cho Phái đoàn Pháp.

Chín giờ rưỡi, bắt đầu họp. Buổi họp nầy là buổi cuối, trước Đại hội bế mạc tối nay. Các đại biểu Pháp sắp được về Sài Gòn hay Paris, đều vui vẻ. Vả chăng đối với họ, sự dự Hội nghị Đà Lạt chỉ là một sai kịch đặc biệt trong đời công chức của một nước lớn mà thôi. Còn tất cả Phái viên ta thì nét mặt tư lự, khổ tâm vì thấy sự điều đình đã thất bại hoàn toàn, và chính hôm nay, sự thất bại về vấn đề Thống nhất sẽ làm đau đớn nhất. Messmer, chủ tọa buổi họp, ngồi ghế giữa cuối phòng khá rộng. Tôi ngồi đối diện đầu phòng, Giáp ngồi sát phía phải tôi, và đối với phía cửa vào. Còn các Phái viên Pháp ngồi đối diện với dãy Phái viên ta. Các cố vấn và những bàng quan hôm cuối tới khá đông.

Messmer nói: "Hôm nay đem bàn hai vấn đề: Dân thiểu số và Trưng cầu dân ý".

Một viên công sứ cũ đứng dậy giảng giải lâu vấn đề dân nào là thiểu số, có phong tục riêng, không thuộc Việt Nam. Nước Pháp phải bảo hộ che chở. Trong khi bàn chuyện với người Pháp hôm qua, tôi đã rõ thâm ý của Cao ủy là tách phần đất Tây Nguyên thành một nước riêng trực thuộc nước Pháp, để dành cho sự thực dân của Pháp. Với nước Tây kì ấy, nước Pháp có một chân trong liên bang. Trước chiến tranh, chánh quyền Đông Dương cũng đã hạn chế sự di dân Việt lên vùng ấy.

Tôi đoán ý Phái đoàn Pháp đem việc này ra, một mặt thì tuyên truyền mạnh để biện chứng cần có chính quyền Pháp ở Đông Dương, một mặt thì để làm hết thời giờ buổi hội, khiến không bàn gì được về vấn đề Trưng cầu dân ý. Vì vậy tôi không xin tạm dừng họp để bàn với anh em, và trả lời lập tức rằng: "Chúng tôi đã rõ ý của Phái đoàn Pháp. Chúng tôi sẽ đem trình Chính phủ. Hội nghị Paris sẽ bàn lại".

Không ngờ rằng các anh em không hiểu ý. Đang hăng máu vì những lời rất khó nghe của chuyên viên Pháp, Giáp nói: "Việc ấy là việc nội trị của chúng tôi. Chính phủ đã có chương trình và đã thi hành chương trình chính trị ấy."

Nhân thế, các Phái viên Pháp lần lượt đứng dậy tấn công. Bourgoin nói rằng: "Việc nầy là bổn phận của nước Pháp. Nước Pháp có trách nhiệm trước mặt hoàn cầu."

Rồi Torel, Bousquet cũng nói hùa vào. Cho đến Ner là một người dự thính cũng can thiệp trực tiếp. Giáo sư Ner, thạc sĩ triết học, đã có lên xứ Thượng trong một thời gian để nghiên cứu về xã hội học. Ner bảo: "Việt Nam cũng phải nhận có cuộc Trưng cầu dân ý riêng về các dân Thiểu số."

Giáp càng tức, càng hăng, muốn trả lời thêm. Tôi phải biên mảnh giấy nhỏ đẩy sang, Giáp mới thôi. Tôi nói: "Xin để trả lời tại Paris. Nay ta hãy bàn sang điểm Trưng cầu dân ý".

Messmer nói xin dừng một lúc để đợi đánh máy cho xong lời đáp của Phái đoàn về điểm cuối nầy. Mười giờ rưỡi, ủy ban họp trở lại. Torel đọc lời đáp ấy, khinh miệt cái hoài vọng thiên nhiên của dân tộc ta, một cách không thể tưởng tượng. Đại ý rằng:

"Nước Việt Nam không phải gồm ba xứ. Thành phần nó là tùy theo kết quả của cuộc Trưng cầu dân ý.

Cuộc Trưng cầu dân ý sẽ chỉ tổ chức ở Trung Kì và Nam Kì.

Chính phủ Việt Nam không được dự vào chính trị của hai xứ ấy trước khi kết quả cuộc Trưng cầu dân ý ấy thuận.

Phái bộ Việt Nam không có quyền bàn gì đến nội trị các xứ ấy.

Nước Pháp sẽ tổ chức cuộc Trưng cầu dân ý và sẽ rất công bằng."

Tôi xin hoãn buổi họp nửa giờ. Anh em họp riêng trong phòng nhỏ. Uất khí lên đầy cổ, trước câu "Vous n'avez rien à dire sur cette question - Các anh không có điều gì được nói trong vấn đề này" của một Phái viên Pháp làm mấy anh tức cực điểm. Nếu cãi nhau liền, thì có lẽ to tiếng. Chúng tôi bàn nên bình tĩnh trả lời, miễn là tỏ được quyết tâm của toàn dân mong mỏi thống nhất, tỏ cho nước Pháp rằng họ đang đi lầm đường, và báo cho những đồng bào phần đang phải sống dưới chính quyền Thực dân, tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc.

Phái đoàn ta dự định, sau khi vào, các đại biểu Nam bộ nói trước, các Phái viên khác sẽ tùy tiện trả lời những lí lẽ mà Pháp sẽ đưa ra, và dành cho tôi kết luận.

Khi vào hội lại, trong phòng im lặng lạ thường. Dương Bạch Mai đứng dậy. Khác hẳn mọi khi, anh thong thả cất tiếng nói, nhẹ nhàng, trầm tĩnh, nhưng rất buồn rầu. Tôi tiếc đã không chép lại trong sổ tay những câu tuyên bố của các người trong phiên họp cuối cùng nầy, vì buổi chiều và tối hôm ấy còn họp hai lần, và phải soạn sửa để ngày sau rời Đà Lạt.

Nhưng tôi còn ghi qua rằng Mai đã nói rằng Việt Nam gồm ba kì, kể lại lịch sử khai thác Nam Trung bộ và Nam bộ, lịch sử thống nhất dân tộc Việt, và vạch thiểm ý của chính sách Thực dân đã chiếm và chia rẽ đất nước ra làm ba để ngự trị. Rằng sau ngày giải phóng, dân Nam bộ đã tỏ lòng cương quyết thà chết hơn mất độc lập và thống nhất.

Pignon đem chuyện Hội đồng tư vấn Nam kỳ không chịu nhận điểm thống nhất ba kì và đánh điện cho Sainteny về chuyện ấy; lại nói đến đề nghị của bác sĩ Thinh. Rồi ông kết luận rằng: "Vấn đề Thống nhất Ba kì rõ ràng không phải là một vấn đề hành chánh, mà thật là một vấn đề chính trị."

Giáp trả lời. Ý là Việt Nam vốn chia đất ra ba kì để tiện việc cai trị. Vậy nay hợp lại chỉ là một vấn đề cai trị, nghĩa là hành chánh.

Messer nói rằng một nước phải gồm những người cùng sống chung. Nếu có kẻ không muốn, thì chỉ có cách hỏi ý kiến họ. Rồi Hiền, rồi Bousquet, đem các lời lẽ pháp lí chọi nhau để tỏ ai có quyền tổ chức cuộc trưng cầu dân ý.

Về vấn đề Nam bộ, Giáp đã có câu "Nếu Nam bộ mất thì dân Việt Nam chiến đấu cho đến khi đòi lại được". Mạnh Tường đã có câu "Nam bộ là thịt của thịt chúng tôi, máu của máu chúng tôi" mà sau này nhiều người đã dùng làm biểu ngữ. Huyên có câu có lẽ thâm trầm hơn, là "Không phải Nam bộ là của Việt Nam, mà Việt Nam là của Nam bộ." Sau cuộc cãi nhau hồi lâu, không khí rất là nghiêm trọng. Các Phái viên Việt đều tức giận, xót xa. Tôi xin nói để kết luận. Tôi nói khá dài, thật ra thì tôi đã cố gắng đọc một bài tuyên ngôn soạn sẵn, mà tôi tiếc đã mất nguyên văn. Tôi cảm động cho nên khó đọc nên lời. Tôi nhắc lại sự nhẫn nhục của Phái đoàn Việt Nam để đi tìm một giải pháp cho mọi phe về vấn đề then chốt của vận mệnh nước mình, và vạch rõ sự nhẫn tâm của thực dân đã dùng hết mọi cách để ngăn cản anh em một nhà sum họp.

Nhìn xuống phòng, thấy các hội viên đôi bên đều cúi mặt, như bị bầu không khí nặng nề đè nén trên đầu. Phút chốc Hồ Hữu Tường đứng dậy, hai mắt đỏ ngầu, đi vòng quanh các ghế, qua trước bàn tôi. Ai cũng nhìn theo trước lúc anh ra cửa. Giáp ngồi bên cạnh tôi cạy cựa, coi chừng không thể nín giận được nữa. Bèn đứng phắt dậy, ôm cái cặp nặng, đi chóng ra cửa, trước mặt tất cả các hội viên sửng sốt. Khi ra khỏi cửa rồi, anh đóng cửa cái sầm!

Trong khi các Phái viên ta lần lượt bỏ khỏi hội phòng, tôi phải dừng đọc. Tôi thấy thoáng qua cái tương lai không những đen tối, mà còn rất bi thảm cho sự giao thiệp Việt Pháp. Cái tiếng đóng cửa cái sầm của Giáp có đánh thức lòng mê muội của những người có cao kiến đến Chính trị Liên hiệp Pháp không? Còn đối với tôi thì đó là tiếng sấm đầu tiên trong cơn giông tố nó sẽ lôi cuốn dân Việt vào một cuộc chiến tranh bắt buộc để giành Độc lập và thống nhất cho Tổ quốc. Những hình hàng vạn nhà tan, hàng triệu dân chết hiện thoáng qua mắt mờ vì cảm động.

Nhưng tôi phải cố gắng đọc rõ mấy câu kết luận:

"Nếu Nam bộ bị bạo lực phải chia lìa với Tổ quốc, thì dân Việt sẽ đời đời tranh đấu để nối lại. Ý nước Pháp có vẻ muốn dùng việc Nam bộ để làm một cái "định ung" - abcès de fixation, nghĩa là một cái nhọt mà y khoa đã cố ý gây ra tại một chỗ nào trên mình bệnh nhân, để dồn nọc bệnh vào đó, kẻo nó xâm chỗ khác - Nhưng hãy coi chừng! Với sự tranh đấu không dừng của dân tộc Việt Nam, cái định ung sẽ hóa ra nhọt thối thịt, nó ăn lan tràn, làm mục nát khối Liên hiệp Pháp.

"Mặc dầu những kẻ, vì ghét một người hay một chủ nghĩa, mà phản bội xứ sở mình, Nam bộ không chóng thì chầy, sẽ trở về trong lòng Tổ quốc."

Tôi nói xong, mọi người đứng dậy ra phòng, không ai nhìn ai, không ai nói chuyện với ai. Tôi không biết ý nghĩ của các thính giả Pháp ra sao. Hình như họ đã cố bưng bít cái buổi họp cảm kích thương tâm này, nhưng họ cũng thấy rằng vấn đề Nam bộ sẽ là khối nặng buộc chân, mà nước Pháp phải kéo lê lâu dài.

*

Phái viên ta ai nấy về phòng mình nghỉ ngơi một chốc cho nguôi cơn cảm kích. Xuống ăn cơm trưa rồi ra phố xem có gì Hà Nội hiếm có thể sắm mang về. Cuối cùng mỗi người mua một đôi dép cao su! Hai mươi tờ giấy bạc Đông Dương một trăm đồng còn nguyên sẽ được đem về nộp Chính phủ.

Bốn giờ chiều, anh em Phái đoàn họp riêng để kiểm điểm công tác đã làm.

Nguyễn Tường Tam nói:

"Tuy hội nghị Đà Lạt không đem đếm một sự thỏa thuận nào giữa Việt Nam và Pháp, nhưng đã có một kết quả tốt đã là đoàn kết tất cả anh em chúng mình, như đã hứa cùng Chính phủ trước khi lên Đà Lạt. Sáng nay, Đà Lạt đã thấy một cảnh tượng đáng ghi: từ anh Cộng sản đến kẻ Quốc gia, cùng rơi lụy trước sợ mất một mảnh đất nước nhà.

"Lịch sử đi đến chỗ đoàn kết có ba thời kì: Bắt đầu đánh nhau; đó là thời kì đau đớn; sau đến thời kì đoàn kết gượng để thành lập một Chính phủ đoàn kết; cuối cùng là thời kì đoàn kết tự do, không ai bắt buộc.

"Chúng ta phải đoàn kết. Các người phụ trách có thể làm cho đoàn kết mà không làm thì có tội. Chúng ta phải hẹn cùng nhau đoàn kết trong một giai đoạn ít ra cũng mười năm..."

Võ Nguyên Giáp nối lời:

"Đảng cộng sản và Mặt trận Việt Minh cũng chủ trương toàn dân đoàn kết. Trong một hội nghị Việt Minh, đã có đề nghị giúp Quốc dân đảng lập lại và mở rộng để có thể lôi cuốn tất cả toàn dân."

Giáp và Tam hứa hẹn cùng nhau rằng sau khi về sẽ giải thích cho đảng phái mình sự ấy. Giáp đã tin rằng mình sẽ đem hết tâm lực làm việc ấy và sẽ lượm được kết quả.

Giáp kết luận rằng: "Ngoài các đảng phái, anh em khác cũng phải đoàn kết. Ngoại giao phải làm từ gốc rễ."

Tam lại kiểm điểm thái độ chung của Phái đoàn. Rằng: "Chúng ta đã theo đúng chỉ thị của Chính phủ, là phải găng nhưng không đứt, là gạt bỏ những vấn đề không hợp ý nguyện mình, chứ không làm liên can đến Chính phủ".

Riêng tôi xét thì cá nhân Tam và Giáp bấy giờ rất thành tâm muốn bắt tay nhau thật thà mà làm việc. Qua ba tuần tiếp xúc với Phái đoàn Pháp, ai cũng thấy rõ rằng vận mệnh của nước ta nay chỉ còn mong ở sự kháng cự của dân ta và nhất là của Chính quyền ta. Những người Mác xít ta có lúc tưởng rằng với thắng thế của hai đảng Xã hội và Cộng sản Pháp sau khi Đức thua, nước Pháp sẽ thả Việt Nam nếu ta cũng đồng chí hướng. Bây giờ họ cũng thấy rằng những cuộc điều đình hoặc ở Hà Nội, hoặc ở Đà Lạt đều đã tiến triển với Chính phủ gồm các đảng ấy ở Pháp. Những đảng ấy tuy đông, nhưng không cản nổi, hoặc không muốn cản những nhóm thực dân dùng võ lực để chia xẻ nước ta ra nhiều mảnh, cắt xẻo những phần cốt yếu về phòng thủ và kinh tế để dần dần tiêu tán hoàn toàn cái quốc gia Việt Nam, dùng nhóm một người vong bản để nô lệ hóa nhân dân. Vì đều thấu rõ sự ấy, cho nên trước cái họa diệt vong, Tam và Giáp đã thấy ý tưởng Đảng là nhẹ mà ý tưởng Quốc gia là nặng. Tôi những tâm nguyện các anh giữ được chí hướng ấy lâu dài.

Với những ý nghĩ ấy, tôi cùng tất cả Phái đoàn vào dự phiên họp Đại hội đồng bế mạc lúc bảy giờ rưỡi tối.

Bourgoin chủ tọa, nói tóm tắt mấy lời, một phần nào tả sự thực. Rằng:

"Hội nghị đã làm cho hai bên biết rõ lập trường của đối phương. Những vấn đề đều được nêu ra rõ ràng, chính xác. Những đề nghị của Pháp đã tôn trọng sự tự do dân chủ của Việt Nam. Cả hai bên đã không mà cả điểm nào cả..."

Tam trả lời cũng vắn tắt: "Trước hết cảm ơn Phái đoàn Pháp đã tiếp đãi trong thời gian hội nghị. Phái đoàn Việt Nam cũng đồng ý rằng hai bên tỏ rõ lập trường nhau và không mà cả. Những đề nghị Việt Nam là vừa muốn liên hiệp với Pháp vừa bảo vệ sự tự do của mình. Sự định đoạt sẽ giành cho Hội nghị Paris."

Thế là xong Hội nghị Đà Lạt. Hơn ba tuần tranh đấu. Phái viên Pháp có lẽ coi như là một cuộc vừa nghỉ vừa làm việc. Còn Phái viên ta thì coi đó là cuộc bảo vệ sự sinh tồn cho dân tộc và cho cá nhân mình. Tối ấy, ngủ đêm cuối cùng ở Đà Lạt, mà không chắc gì còn có thể trở lại ngắm cái cảnh xinh đẹp của trung tâm miền Thượng nầy.

*

Rạng ngày sau, chủ nhật 12 tháng 5, ô tô Pháp đem Phái bộ đi đến sân bay. Có lễ tiễn tống gì không, tôi không ghi gì lại. Có lẽ chuyến về rất sơ sài giản dị.

Chín giờ bốn mươi, tàu bay cất cánh, bay thẳng về Bắc. Tàu đi chuyến nầy cửa mờ kín, nên khó trông ra ngoài. Anh em có lấy một số tờ báo ở phòng Báo chí mang về. Ngồi trong tàu, chia nhau đọc cho khuây.

Từ mười hai giờ, hình như trông thấy biển mù xanh. Máy bay bay cao, trông xuống thấy nhiều đám mây trắng nhỏ trôi dưới.

Cù Huy Cận, người nhỏ tuổi nhất, tính rất vui; pha trò làm anh em đỡ buồn. Cận ra câu đối:

Việc nước mười hai ông Phái bộ.

Có anh hỏi: "Câu đối như thế thì khó ở đâu ?"

Cận bảo là câu đối tức cảnh và có ghép những tiếng mười hai và tiếng nước. Tôi phải giải thích thêm cho các anh không hiểu rằng: "Tục ngữ có câu: Phận con gái, mười hai bến nước. Mười hai bến trỏ ý cách xa nhau; đây trỏ ý con gái đi lấy chồng phải lìa nhà mình, làng mình".

Có anh đối đùa rằng: "Đợi nhà ba bảy ả K.T". K.T là xóm Khâm Thiên, ngày trước là xóm cô đầu ở Hà Nội. Cận bẻ rằng còn thiếu phần ghép chữ. Tôi cũng đùa theo, xin chữa ra:

"Đêm mai ba bảy ả K.T".

và giải thích với vế Kiều: "Quả mai ba bảy đang vừa", trỏ con gái đến tuổi kén chồng.

Đại loại, các thơ đùa cũng đã làm trò vui cho quên cái buồn, cái mệt đã tích trong mình trong hơn ba tuần lễ. Cận làm thơ Vô đề dùng tên hoặc đặc điểm gì của một vài phái viên:

Đà Lạt hoa kia biết nói cười

Tường Nam, Tường Bắc biết theo ai

Trưởng đoàn, đoan trưởng đều cao cả

Thang một làm sao bắc cả hai

Đoan trưởng là Trịnh Văn Bính giám đốc vụ quan thuế. Trưởng đoàn là Nguyễn Tường Tam. Hai người này đều cao. Thơ chẳng có nghĩa gì, nhưng bạn đồng hành đều họa chơi. Tôi cũng có họa:

Đà Lạt hoa em mới ngậm cười

Theo làng Khoa, Giáp chứ theo ai

Hòe, Mai vẫy ngọn cao khôn với

Tam cấp thang đành bước được hai

Thấy các thơ họa cũng vô duyên như thơ xướng, tôi mới đem bài thơ, mà tôi đã làm một hôm nghỉ họp trên Đà Lạt, ra cho các anh em xem, rồi mời họa, hoặc làm thơ ghi cảm tưởng hay tình tứ. Thế là các anh em ngồi im lặng khá lâu. Hòe, Cận, Hiền có thơ họa đưa tôi xem. Tôi tiếc đã không chép lại. Tôi chỉ ghi lời bình phẩm: Hòe thơ già dặn, Cận lời bóng bẩy, Hiền chịu khó nhưng chưa quen làm thơ.

Rồi các hành nhân dần dần ngủ gà ngủ gật. Tiếng chong chóng tàu như sấm bão, làm cho không nghe người ngồi bên cạnh nói. Cửa sổ gương mờ, chỉ có một lỗ nhỏ ở giữa. Phải ghé mắt gần sát mới thấy mây, đất, núi, sông. Gió lọt qua khe hở thổi lạnh cả lưng. Trong lúc tai không bưng mà điếc, mắt không bịt mà mù, tôi chỉ còn cách nhìn quanh trong tàu mà ngắm các anh em; anh ngủ ngon lành, anh đọc nhật trình, anh ra vẻ mơ màng, anh ra dáng mệt mỏi. Lại có bốn anh quay quần đánh bài ở phía sau tàu.

Trong khoảng không gian chật hẹp ấy, mà tôi thoắt thấy như đang cô quạnh ở chốn thanh u. Mơ màng nhớ cảnh núi hồ Đà Lạt, ngẫm lại những lúc cảm kích vì phải nghe những lời đối phương lấn ép, phải nỗ lực lấy lẽ phải luận bàn. Tôi ngẫm nghĩ một bài hát nói để ghi lại cảnh vật và tâm tình.

Bài hát Hội nghị Đà Lạt ấy như sau:

Núi Đà Lạt xa quanh mình uốn éo.

Lững lưng đồi, ai khéo vẽ rừng thông

Mặt hồ xanh, mây bạc bóng gương lồng

Trên cỏ lục, lối hồng đang uốn khúc

Ngắm cảnh tay người, thêm tấm tức

Gẫm mình việc nước vẫn đeo đai!

Giữ non sông, thao lược đã không tài

Nêu sứ mệnh, một vài câu biện luận

Thấy lẽ mạnh ép hèn, sôi nổi giận

Tuốt gươm thù, toan quyết trận phong ba

Nhớ ra... đã có nghị hòa!

Làm xong, tôi viết vào giấy, rồi trao cho Cận ngồi cạnh xem. Cận ngâm nga lẩm nhẩm; rồi nhà thi sĩ tặng tôi một câu bình phẩm: le poète n'est pas celui qu'on pense - thi sĩ không phải kẻ mà người ta tưởng. Lời tán thầm là quá, nhưng đó là lời của một bạn văn thông cảm với người "một hội một thuyền ". Hai nụ cười hóm hỉnh của Tạ Quang Bửu khi đọc về "Gẫm mình việc nước vẫn đeo đai" và về cuối, tỏ rằng ảnh đã hiểu thấu tâm lí tôi, và khiến tôi thêm cảm động.

Máy bay đã tiến gần về đất Bắc. Có lúc bay thấp xuống, để thấy bờ biển, sông núi; đoán chừng vào chặng Nghệ An. Rồi dần dần vào thiên phận Nam Định, Hà Nam. Phía tây thấy dãy núi lèn Nam Công, Hương Tích. Tàu càng xuống thấp. Nầy núi Đọi, nầy sông Châu Cầu. Rồi núi Tam Đảo đã hiện đầu chân trời.

Máy bay hạ cánh xuống Gia Lâm. Bây giờ mới một giờ rưỡi, ngày chủ nhật 12 tháng 5. Phái đoàn về đến Hà Nội, anh em chia tay nhau sau khi hẹn ngày hôm sau lại họp để phục mệnh với Chính phủ.

*

Mười giờ sáng hôm sau, ngày 13, các Phái viên tề tựu đến dinh Chủ tịch. Có đủ mặt các bộ trưởng. Nguyễn Tường Tam nói: "Phái bộ xin ra mắt Chính phủ" .

Cụ Chủ tịch: "Hoan nghênh Phái bộ Hội nghị trù bị. Tuy kết quả chưa đủ, nhưng Phái bộ đã làm cho nước Pháp và ngoại quốc biết rõ rằng người nước ta biết tranh đấu, biết công tác và biết đoàn kết..."

Tam báo cáo về tính cách của công tác Phái đoàn. Đại cương có những ý sau nầy:

- Tranh đấu găng, thì lúc nào cũng găng; nhưng không để phá liệt;

- hết sức làm việc;

- chuẩn bị kĩ càng các buổi họp;

- hành động cá nhân không làm mất thanh danh cá nhân và Tổ quốc;

- ngoài sự đàm phán, các anh em hiểu rõ nhau hơn, và chắc đã đoàn kết nhau hơn.

Võ Nguyên Giáp nối lời, nói cũng đồng ý với Tam và báo cáo rằng Hội nghị đã làm ta rõ lập trường của Pháp. Lập trường ấy không khác gì cái mà mình đã thấy trước: lập lại chính quyền thuộc địa qua Liên bang Đông Dương, dùng tay sai mà thực trị Nam phần Việt Nam, dùng quân đội hạn chế quyền tự chủ của ta ở Bắc phần.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng nói: "Mừng đoàn kết trong Phái đoàn và tất cả toàn dân phải đoàn kết để đánh đổ âm mưu chiếm đoạt của thực dân".

Cụ Chủ tịch nói: "Phải tiếp tục tranh đấu tại Hội nghị Paris".

Năm giờ chiều hôm ấy, Phái đoàn cũ lại họp buổi cuối cùng để kiểm điểm những khuyết điểm của sự làm việc, và để rút kinh nghiệm cho Phái bộ sẽ đi Paris.

Phần lớn Phái viên đã nhận rằng về tinh thần thì Phái đoàn đã làm tròn nhiệm vụ một cuộc đàm phán trù bị, bày tỏ ý chí mình và dò xét mưu ý đối phương. Nhưng về phần tổ chức vật chất thì có khuyết điểm.

Giáp kể những khuyết điểm về giao hữu giữa nhân viên Phái đoàn, về tổ chức văn phòng, tổ chức những tiểu ban và liên lạc giữa phái viên và cố vấn.

Hiền nhấn về sự anh em thường để ý nhiều về những tiểu tiết, còn về những việc lớn thì không bàn đến. Hiền cho thí dụ việc bàn luận về Liên bang.

Mạnh Tường trách rằng về khoản thù tiếp với các tư nhân nước ngoài, với các nhà báo, ta không dự định. Đáng lẽ phải có ngân quỹ nhất định.

Tam thêm rằng: "Nếu cần thì phải ngoại giao..."

Cuối cùng Giáp nói về phương pháp làm việc trong các cấp đàm phán: trong buổi họp Uỷ ban, trong buổi họp Đại hội, trong khi trao đổi văn kiện và trong khi tiếp xúc cá nhân.

Thế là nhiệm vụ của các phái viên đã chấm dứt tại buổi tối hôm ấy.

*

Dư ba của Hội nghị là bữa cơm Chính phủ đãi anh em Phái đoàn. Tất cả các bộ trưởng, Phái viên, cố vấn, hành nhân ngồi chung quanh cái bàn dài trang hoàng bằng những cụm hoa đỏ xen vàng. Hai cụ Huỳnh, Hồ ngồi giữa. Chuyện trò ồn ào náo nhiệt, hầu như ai cũng đã quên những buổi tranh đấu tổn thương cân não. Có một lúc Cụ Chủ tịch hỏi các Phái viên: "Cảnh Đà Lạt có đẹp không ?"

Cù Huy Cận tả, khoe cái đẹp thiên nhiên của Đà Lạt.

Cụ lại hỏi: "Thế thì các chú có làm thơ không"?

Cận trả lời: "Anh Hãn có làm"

Cụ bảo: "Đọc cho nghe nào" Rồi cụ ngảnh tìm tôi. Tôi ngồi khá xa. Vốn không thích đem văn thơ kể tâm sự ra làm trò chơi ở tiệc công; Nhưng trong buổi họp này; dù có các Cụ, các bộ trưởng, có không khí rất gia đình. Tôi không thể chối từ, nhưng còn lưỡng lự nên đọc bài Đường luật hay là bài Hát nói. Lại nghĩ rằng vế kết của bài hát nói; Nhớ ra đã có nghị hòa, có thể nghe ra đáng trách Chính phủ đã kí Hiệp định sơ bộ, tôi đành đọc bài kia, tuy rằng nó tả cái đẹp của Đà Lạt không đủ bằng bài Hát nói.

Nghe xong, Cụ hỏi đùa rằng: "Thế thì Hoa có biết nói không?" Rồi Cụ lại hỏi có ai làm thơ Đà Lạt nữa không.

Không ai trả lời. Thấy sự im tiếng khá lâu, tôi lại lên tiếng, nói vọi rằng: "Nhân chuyện tranh luận ở Hội nghị Đà Lạt, tôi đã nhớ đến bài thơ Tết của Cụ".

Cụ ngoái cổ lại, coi vẻ ngạc nhiên, và cùng cả cử tọa chờ.

Tôi nói tiếp: "Bữa Tết, tôi đã đọc bài thơ Khai bút của Cụ cho các Cụ ở trong quê Hà Tĩnh nghe. Các Cụ đều khen thơ Cụ rất hay, khen lời thật mà hay. Nhưng có Cụ lo..."

Ai cũng ngảnh lại phía tôi với đôi mắt tò mò, mà chắc không ai đoán được tôi muốn nói điều gì.

Tôi nối câu: "... vì trong thơ có lời sái". Sái trỏ một lời nói hoặc câu văn, tuy tác giả vô tình, nhưng thính giả có thể xoay hiểu ra nghĩa không tốt. Người ta thường tin đó là điềm gở.

Cụ hỏi: "Lời sái ở chỗ nào?"

Tôi đáp: "Thưa Cụ, ở câu thực:

Độc lập đầy vơi ba chén rượu

Tự do vàng đỏ một chòm hoa

"Vì có bốn chữ Độc lập đầy vơi"

Cụ hiểu ý liền. Nhanh ý Cụ hỏi lập tức: "Thế thì các Cụ chữa lại ra sao?"

Chuyện các Cụ Hà Tĩnh bàn tán thơ khai bút trên có thật. Tôi đáp: "Có Cụ đã xin đổi vế trên ra: Độc lập say sưa ba chén rượu"

Cụ không nói gì. Cử tọa lao xao nói chuyện khác.

Hậu quả cuối cùng, đối với tôi, của Hội nghị Đà Lạt là đã phải theo Cụ Chủ tịch đón Đô đốc D’Argenlieu, ngày 19 tháng 5, trước thềm dinh Chủ tịch.

Sau bữa cơm kể chuyện trên, tôi được rút lui về chăm việc văn hóa. Thình lình có điện thoại văn phòng chủ tịch gọi lên phủ gấp, vì có Đô đốc tới thăm. Chủ tịch nghĩ nên có một người thay Phái đoàn Đà Lạt ra đón với Cụ.

Tôi theo Cụ trong phòng khách đi ra cửa. Xe Đô đốc dừng dưới thang cấp trước dinh. Đô đốc lên khỏi bực thang. Chủ tịch tiến nhanh nhẹn ra, ôm lấy Đô đốc mà hôn má; rồi bắt tay những vị tùy tùng. Cụ giới thiệu tôi, rồi chủ khách vào phòng uống trà, nói chuyện tươi cười.

Đô đốc chúc thọ Chủ tịch, và ngày ấy là ngày sinh nhật Cụ.

Tôi ngồi một góc, nhìn hai chủ khách mà ngán cho cái trò điển lễ ngoại giao. Một bên đắc thế, muốn bóp cổ người mà vẫn làm như thân thiện. Một bên biết vậy, mà phải có thái độ hồn nhiên.

Cụ Chủ tịch hồi ấy trông khí sắc đã vững. Kinh nghiệm đưa đón một quốc trưởng đã khiến Cụ có dáng điệu chững chàng tuy giản dị. Cái trách nhiệm bảo vệ nền tự chủ bấp bênh đang đè nặng trên vai. Mà Cụ không tỏ vẻ lo âu, bực tức chút nào.

Cuối tháng, Cụ và Phái đoàn mới sẽ đi Paris. Tương lai thế nào? Nhân dân Pháp và các chính khách bạn Cụ có sẽ làm nhẹ gánh cho Cụ được phần nào chăng? Đó là những ý nghĩ của tôi trong khi phải "bồi thị". Nhưng tôi đã tự hỏi: Võ Nguyên Giáp đi đâu, không có mặt ở đây? Chắc rằng từ sau khi trên Đà Lạt ảnh bỏ ra hội phòng và đóng cửa cái sầm, ảnh rất bận vì phải gây dựng thực lực để đối phó với tương lai.

*

Tương lai? Tương lai gần sát là:

- Ngày mồng 1 tháng 6, một ngày sau khi Chủ tịch và Phái bộ điều đình lên máy bay đi Paris, Đô đốc D’Argenlieu "cho phép" Hội đồng Tư vấn Nam Kì thành lập một Chính phủ lâm thời Nam Kì có quyền tự trị, nhập vào Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp.

- Ngày mồng 6 tháng7, Hội nghị Việt - Pháp đáng lẽ mở ở Paris, nhưng chính phủ Pháp "đày" ra Fontainebleau.

- Mồng 2 tháng 8, Đô đốc D’Argenlieu nhóm đại biểu các chính phủ Mên, Lào, Nam Kì, và đại biểu Nam Trung bộ, miền Thượng và mở Hội nghị Đà Lạt lần thứ hai để lập Liên bang Đông Dương. Đại tá Pháp, gốc Việt, Nguyễn Văn Xuân cầm đầu Phái bộ Nam Kì, cùng với một đại diện Pháp.

- Ngày hôm sau, mồng 3 tháng 8, xung đột đầu tiên giữa hai quân Pháp Việt xảy ra ở Bắc tại Bắc Ninh.

- Hội nghị Fontainebleau tự giải tán ngày 12 tháng 9.

- Tối 14 tháng 9, riêng Chủ tịch kí với bộ trưởng Hải ngoại Pháp Moutet một tạm ước, tạm nhận những điều yêu sách của Pháp, để chờ mở lại điều đình. Trừ việc chính phủ Nam kì tự trị thì bỏ lơ không nói đến.

- Ở Bắc, quân đội Pháp chiếm biên thùy Đông Bắc để mở những nhóm tự trị thiểu số. Chiếm lại phủ Toàn quyền, sở Tài chính. Lập lại quan thuế ở Hải Phòng.

Nói tóm lại, chương trình lập lại Chính quyền Thực dân ở Đông Dương được dần dần thực hiện, bằng mọi cách: điều đình, áp bức, nội công, chiếm đoạt bằng binh lực.

Những điều Phái đoàn Đà Lạt đã dự đoán đều đúng.

"Sự đã rõ ràng, chỉ còn cách đánh nhau giữa chúng ta" Đó là lời đáp của tướng Salan cho Hoàng Minh Giám tại Paris.

"Chim còn hay dựng hầu cất mỏ 

Thú còn hay giơ vó nhăn nanh

Sao ta chịu nhuốc cho đành?

So loài cầm thú thẹn mình lắm thay!"

Đó là lời kêu gọi hồn của những người ái quốc liệt sĩ.

Tám giờ rưỡi tối 19 tháng 12, bắt đầu cuộc chiến tranh giải phóng.

Cái mộng nước Việt Nam giải phóng với sự thỏa thuận của nước Pháp mới đã tan. Lời cảnh cáo của tôi nói ra hai lần trước Phái viên Pháp rồi cũng nghiệm. Sự chiến đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam đã đánh thức một số dân thuộc quốc khác, làm khối Liên hiệp Pháp dần dần mòn đi. Nó cũng đánh thức những chánh khách có tầm mắt trông xa trên đường chính trị Pháp. Nhờ vậy ngày nay nước Pháp không những về tinh thần đã chiếm lại được nhiều thanh danh đối với các nước, mà cả về vật chất, kinh tế Pháp khỏi ách quân sự, đã phát triển mạnh trên xứ sở; và quyền lợi Pháp trên các nước ngoài, kể cả các nước cố thuộc, đã mở mang rất chóng.

Còn đối với nước ta thì hậu quả của sự ngoan cố của phái Thực dân đến nay còn cay độc. Chiến tranh còn dày xéo đất và dân ta. Nhưng chiến tranh cũng có ngày hết. Nước Việt Nam độc lập, hòa bình sẽ thân thiện với các nước chuộng hòa bình.

Nay nước ta còn n

Thịt một miếng trăm dao xâu xé 
dao Mĩ, dao Úc, dao Triều Tiên, dao Thái Lan, nhưng dao Pháp trước cắm sâu như vậy, mà cũng hầu trở thành bàn tay thân thiện, thì những dao kia cũng rút đi.

Bấy giờ, những điều hòa bình, độc lập và cả thống nhất mà Phái đoàn Đà Lạt đã hết sức tranh đấu trong các buổi họp, sẽ bởi dân ta tự định đoạt. Nếu tất cả mọi người còn nhớ hai tiếng

ĐOÀN KẾT

như tiếng vọng của dĩ vãng nước nhà mỗi lúc lâm nguy, thì có lẽ, với lòng ái quốc của mọi người thành thật, những điều ấy sẽ đạt.

*

Tỉnh giấc mộng ngâm câu ký vãng

Tải mấy thu ngày tháng như thoa

Từ hội nghị Đà Lạt đến nay đã một phần tư thế kỷ. Đứa con ra đời lúc tiếng súng Điện Biên dừng nổ, nay đã thành nhân. Chuyện Đà Lạt kia chỉ là chuyện Đời xưa. Những người dự cuộc ở phái ta đã một phần không ít quá cố. Tôi đã thành thật gắng chép ra những điều tôi đã chứng kiến và đã ghi, hoặc nhớ lại. Chỗ sót chắc nhiều, điều sai gắng tránh. Mục đích không ngoài ôn chuyện cũ, góp phần cho những nhà viết sử mai sau.

Nếu độc giả ngày nay có thể rút được một vài kinh nghiệm để trỏ hướng hành động của mình cho nước cho dân, thì lại càng làm thỏa lòng tôi thầm nguyện.

Lòng thầm nguyện ấy chắc cũng là chung cho hầu hết đồng bào, mà nhân tiện câu chuyện Đoàn kết trên đây, tôi xin tặng mấy câu tôi đã viết theo lối phong dao, sau khi Hội nghị Genève cắt đôi đất nước:

PHONG DAO

Ngày xưa Nguyễn Trịnh phân tranh

Chia đôi đất nước, sông Gianh là bờ

Bắc Nam chia nước bây giờ

Thì lấy Bến Hải làm gờ phân tranh

Xưa kia lỗi chỉ tại mình

Bây giờ xui dại là anh chực ngoài

Chớ nghe miệng chúng dông dài

Chúng chờ ta vật lộn cho nhoài... rồi chúng xơi!

Lạng Sơn cho đến Cà Mau

Tổ tiên gây dựng biết bao công trình

Người Thượng cho đến người Kinh

Cũng chung đất nước, cũng tình anh em

Ai ơi! Gẫm lại mà xem

Lẽ nào thân mẹ, con đem chia phần?

 

Từ Mác xít đến Giáo dân!

Bớt phần lý tưởng, thêm phần yêu đương

Bớt nghi kỵ, bỏ lọc lường

Cùng nhau siết cánh lên đường vinh quang"

Thiết tưởng những lời ấy, thời nầy cũng chưa lỗi.   

 

Viết tại Paris tháng 10, 1971

HOÀNG XUÂN HÃN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(9) Nay chúng tôi sưu tầm lại được, cho in ở phần sau, phụ lục (BT).

Trở về đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(10) Tức BS Trương Đình Tri.

Trở về đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(11) Nguyên văn Pháp là: Selon les usages internationaux, le Haut Commissaire de France, Représentant du Gouvernement de la République, attendait M. Nguyễn Tường Tam, Ministre des Affaires étrangères, Président de la Délégation du Gouvernement de la République du Vietnam à 10 heures 45. Outre les exigences du Protocole, cette visite devait permettre de lui présenter M. Max André, vice président du conseil général de la Seine, Délégué du Ministère des Affaires étrangères et du Ministère des Armées, choisi pour exercer la présidence de la Délégation francaise. La Délégation de la République du Vietnam devait être pareillement introduite par son Président.

Il est actuellement 11 heures 45, les membres de la délégation francaise se sont réunis pour accueillir leurs collèges dans la salle de conférence.

Cette situation ue pouvant se prolonger qu'au détriment des travaux de la Conférence, le Haut Commissaire exprime au Ministre des Affaires étrangères de la République de Vietnam, une fois encore, le désir de recevoir dès maintenant sa visite, afin de créer le climat favorable indispensable.

Trở về đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(12) Như trên đã nói. Lúc ra đi, hình như chỉ thị của Chủ tịch là đừng khơi vấn đề Đình chiến. Tôi không nhớ đây là ý riêng của Mai hay mới có chỉ thị mới mà tôi không được biết.

Trở về đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(13) Tôi dùng từ này chỉ dịch Pháp ngữ Climat và dành không khí cho ý atmosphère

Trở về đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(14) Memorandum.

Trở về đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(15) Par discipline.

Trở về đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(16) Participation.

Trở về đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(17) Tôi dùng hoặc Toàn thể đại hội, hoặc Đại hội đồng để tỏ ý Séance pleinière.

Trở về đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(18) Note verbale: văn kiện trao đổi để báo ý trước, chưa định hẳn.

Trở về đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(19) Kho thuốc súng Sài Gòn bị đốt ngày 8-4, cách bấy giờ gần một tháng.

Trở về đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(20) Nguyên văn: Malgré ceux qui, pour acoir hai un homme ou une idéologie, trahissent leur pays, le Nam bộ reviendra au sein de notre Mère Patrie.

Trở về đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(*) Thực ra phó chủ tịch là Nguyễn Hải Thần, nhưng cụ Nguyễn đã tự bỏ chức vị để rút lui.

Trở về đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

** Bài A tế á (Tăng Bạt Hổ?)

Trở về đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

*** Bài Trần tình (Cao Bá Nhạ)

Trở về đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

**** Bài Trần Tình (Cao Bá Nhạ)

Trở về đoạn vừa đọc

 

  Nội dung chính Trang trước Mục lục Trang sau