Trang trước   || MỤC LỤC ||   Trang sau

 
         

PHÂN BỐ DÂN CƯ

Người Kinh sinh sống ở hầu khắp các xã phường trong tỉnh. Tập trung đông nhất là thành phố Đà Lạt, thị xã Bảo Lộc, các thị trấn, huyện lỵ Di Linh, Đức Trọng, Đơn Dương, Lâm Hà, Bảo Lâm, Đạ Tẻh, Đạ Huoai, Cát Tiên và vùng ven các lộ giao thông chính (quốc lộ 20, lộ ll, đường số 8).

Lâm Đồng là nơi quy tụ của đồng bào Kinh thuộc các địa phương thuộc đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ đến lập nghiệp trong nhiều hoàn cảnh và thời điểm lịch sử khác nhau...

Các địa điểm định cư của cư dân người Kinh như ấp Hà Đông, ấp Nghệ Tĩnh  và các ấp khác, là lớp cư dân đa số, đã có mặt vào những thập niên ba mươi trở về nửa cuối thế kỷ XX, tại Đà Lạt- Lâm Đồng.

Là dân tộc có dân số chiếm đa tuyệt đối tại địa phương, dân tộc Kinh có vai trò hạt nhân đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ các dân tộc thiểu số anh em khác tại địa phương cùng nhau xây dựng Lâm Đồng thành một tỉnh giàu, đẹp trên vùng đất Tây Nguyên- một địa bàn chiến lược về kinh tế, chính trị và quốc phòng của cả nước- một trong ba vùng trọng điểm sau vùng đồng bằng sông Hồng và châu thổ sông Cửu Long mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang chú ý đầu tư xây dựng về nhiều mặt.

3. Sinh hoạt kinh tế - đời sống vật chất

Từ thiên niên kỷ thứ II trước Công nguyên, người Kinh đã biết canh tác lúa nước. Kỹ thuật dùng cày (lưỡi cày bằng đồng thau) để xới đất đã trở thành phổ biến từ nửa sau thiên niên kỷ thứ I, trước Công nguyên. Những công trình chống lũ lụt và thủy lợi tiêu biểu là những con đê bằng đất sét, đá đắp cạp theo đôi bờ những dòng sông mới chảy qua địa vực của mình cũng đã được xây dựng từ lâu đời.

Người Kinh là một dân tộc trồng lúa nước, thâm canh hoa màu và làm thủy lợi, có nhiều kinh nghiệm. Họ đã giải quyết được các khâu kỹ thuật để thâm canh, tăng vụ với nhiều vụ lúa và hoa màu trong một năm. Những con đê lực lưỡng có độ dài tổng cộng hàng nghìn cây số như hiện nay còn thấy ở lưu vực sông Hồng, sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình, sông Mã, sông Lam v.v... đã được cộng đồng cư dân người Kinh hoàn chỉnh từ thế kỷ XV.

Không chỉ thành thạo trong nông nghiệp, người Kinh còn là một dân tộc rất khéo tay về thủ công nghiệp, với những nghề chính như: chế biến lương thực- thực phẩm (làm muối, mắm, nước mắm, đường, mật, tương, chao, cà, nước chấm, các thứ bánh, mứt, kẹo), sản xuất đồ đất nung (đồ gốm, sành, sứ và đồ men sứ thời Lý- Trần), làm ra các dụng cụ gia đình (đan lát các gia cụ bằng mây, tre, lá v.v...), xây dựng (nhà cửa, đền đài, cung điện) và làm ra các loại vật liệu xây dựng (từ đá, đất nung, tre, gỗ lá), đồ dệt từ bông- sợi, tơ tằm, rèn đúc kim loại với các công cụ đồ dùng, đồ trang sức và vũ khí v.v...

Trên cơ sở những sáng tạo và tiến bộ của phức hợp kỹ thuật nông nghiệp- thủ công nghiệp nói trên, cộng đồng người Kinh đã ổn định từ trong lịch sử một đời sống vật chất truyền thống của mình, bằng những bữa ăn hàng ngày với lương thực chính là gạo tẻ, cùng với các loại thực phẩm như cá, mắm, tương, cà và các loại rau. Trong những bữa cỗ ngày giỗ, ngày tết có xôi nếp, bánh chưng, bánh tét, bánh giày, thịt gà, thịt heo và rượu.

Về kiến trúc những ngôi nhà để ở, có kết cấu bộ khung sườn và hệ thống các vì kèo, tre, gỗ đặc sắc dựng trên nền đất ''vượt thổ" Trong khuôn viên của khu vườn nhỏ có giếng nước, ao nhà, làm tăng thêm nét hài hòa, đầm ấm.

Về trang phục truyền thống, từ những bộ trang phục khởi đầu mang đặc trưng của chiếc váy đàn bà và chiếc khố đàn ông về sau phát triển thành bộ xiêm- áo phụ nữ và quần áo cánh của nam giới mặc thường ngày, cộng thêm chiếc áo dài tứ thân mớ ba mớ bảy cho phụ nữ, áo chùng thâm cho nam giới hài hòa với chiếc khăn vấn tóc, nón che đầu trong những ngày lễ hội v.v...

Bảo tồn và phát huy truyền thống canh tác của cư dân nông nghiệp lâu đời, khi thiên cư đến Lâm Đồng, cộng đồng người Kinh tiếp tục trồng lúa nước, thâm canh hoa màu, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản, rau ôn đới, trồng hoa, dâu tằm và cây dược liệu với kỹ thuật thâm canh khá cao là một nguồn thu nhập chính yếu của cư dân người Kinh ở Lâm Đồng. Những vườn ran ôn đới, đồi chè, cánh đồng dâu, vườn cà phê rộng lớn ở Di Linh, Bảo Lộc là sản phẩm lao động cụ thể của họ. Cùng với trồng trọt, chăn nuôi gia đình, các nghề thủ công nghiệp như nghề mộc, rèn, đan lát, thêu ren và thương nghiệp- dịch vụ ở Đà Lạt, thị xã Bảo Lộc, các thị trấn, các huyện lỵ và các điểm dân cư mang tính chất đô thị tại địa phương cũng là những hoạt động kinh tế khá quan trọng của cộng đồng người đa số ở Lâm Đồng. Các chợ như Đà Lạt, Bảo Lộc, Di Linh, Đơn Dương, Tùng Nghĩa, Lạc Dương, Đạ Tẻh, Đạ Huoai v.v... là do cư dân người Kinh cùng các dân tộc khác góp công xây dựng nên.

Có thể nói rằng các thôn ấp trồng lúa nước, thâm canh hoa màu, cây ăn quả đặc sản, trồng rau ôn đới, trồng trà, cà phê, dâu tằm, ar- ti- sô, canh- ki- na, các chợ búa của cư dân người kinh ở đây, từ lâu, đã có một tác động kinh tế- xã hội cổ truyền của đồng bào Mạ, Cơ Ho, Chu Ru, Raglai và M'nông tại địa phương. Đó là những mô hình kinh tế- xã hội cụ thể, trực quan, sống động, gần gũi cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng tham quan, học tập bắt chước làm theo từng bước đổi mới và phát triển các phương thức sinh hoạt kinh tế truyền thống của mình để đạt hiệu quả kinh tế cao hơn, góp phần ổn định và cải thiện dần đời sống vật chất và tinh thần của cư dân bản địa, đó cũng là một sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa cư dân người Kinh và cư dân thiểu số tại Lâm Đồng dưới chế độ mới.

4. Quan hệ xã hội

Là cư dân bản địa trên lãnh thổ Việt Nam, địa bàn sinh tụ chủ yếu của người Kinh là vùng đồng bằng châu thổ, nhất là châu thổ các dòng sông lớn như: sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, sông Lam, sông Đà Rằng, sông Thu Bồn, sông vàm Cỏ, sông Cửu Long v.v... Từ chiếc nôi của họ là vùng châu thổ sông Hồng, người Kinh hiện nay có mặt ở khắp mọi miền đất nước, từ núi rừng biên giới Tây Bắc, Việt- Bắc cho đến cao nguyên phía Tây và hải đảo phía Nam, là một cộng đồng,tộc người thống nhất, với ít nhiều sắc thái địa phương.

Khoảng 4000 năm trước đây, dân tộc Kinh đã chiếm lĩnh địa bàn vùng trung du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và vùng châu thổ sông Hồng ngày nay. Cũng từ thuở xa xưa ấy, người Kinh đã có mối quan hệ gần gũi với các dân tộc thuộc các nhóm ngôn ngữ Việt- Muờng, Tày- Thái, Môn- Khơ me, Hán- Tạng và Malayo- Pôlinêxia. Người Kinh đã từng lao động và đấu tranh chinh phục thiên nhiên, sáng tạo ra các nền văn hóa cổ như : văn hóa Phùng Nguyên- Đông sơn rực rỡ... Người Kinh sinh sống trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng ngày nay, vốn có quê hương từ mọi miền trong cả nước như: Bắc Bộ, Trung Bộ và một ít từ Nam Bộ Việt Nam.

Xã hội cổ đại của người Kinh đã vượt qua ngưỡng cửa của xã hội nguyên thủy để bước sang xã hội có giai cấp với các hình thức nhà nước sơ khai đầu tiên như quốc gia Văn Lang ở vùng tam giác châu Việt Trì, ra đời từ nhiều thế kỷ trước công nguyên. Tiếp theo đó là quốc gia Âu Lạc đóng đô ở thành Cổ Loa với nhiều vòng trường thành kỳ vĩ và các pháo đài phòng thủ kiên cố với các mũi tên đồng còn lưu lại tận ngày nay.

Ngay từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên, người Kinh đã phải trực tiếp đương đầu với sự bành trướng xuống phía nam của người Hán- và từ năm l l l trước Công nguyên đến năm 938 sau Công nguyên đã bị nhiều triều đại phong kiến Trung Quốc đặt ách thống trị với chính sách bóc lột và đồng hóa rất hà khắc...

Nhưng sau hơn l000 năm đấu tranh liên tục và kiên quyết chống ách đô hộ của các tập đoàn phong kiến Trung Hoa, người Kinh đã vươn lên giành lại được nền độc lập và xây dựng chính quyền tự chủ qua các triều đại họ Ngô (Ngô Quyền), họ Đinh, họ Lê, họ Lý, họ Trần, và họ Hồ, nhà hậu Lê, họ Nguyễn Tây Sơn, nhà Nguyễn thế kỷ XIX.

Người Kinh là cư dân làm nông nghiệp lúa nước từ lâu đời Các quan hệ xã hội sinh hoạt văn hóa vật chất và tinh thần truyền thống đều dựa trên cơ sở đó.

Tổ chức và sinh hoạt cổ truyền của người Kinh tập trung đặc trưng điển hình ở làng, một hệ thống những quan hệ hết sức đa dạng, chặt chẽ, nhưng không bảo thủ và đóng kín. Làng người Kinh với hệ thống chế độ sở hữu, chiếm hữu, sử dụng ruộng đất và các tài sản công tư; với hệ thống sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo từ những hình thức tín ngưỡng nguyên thủy thờ cúng tổ tiên được bảo lưu dai dẳng, đến các tôn giáo từ bên ngoài được du nhập vào như : đạo Phật, đạo Nho, đạo Lão, đạo Ki- Tô và những tôn giáo nội sinh như : đạo Cao Đài và đạo Hòa Hảo. Bộ máy tự quản của làng cổ truyền như các hội đồng tộc biểu, kỳ mục, kỳ lão, các chức dịch mang tính chất đẳng cấp, thân phận (như : đinh, tráng, tuần phu, các chức sắc của làng; các tổ chức quản lý, canh phòng, tương trợ v.v...) với đủ các chiều hướng liên kết hết sức chặt chẽ, từ hệ thống thân tộc theo huyết thống, địa vực cư trú, đến tuổi tác, giai cấp, đẳng cấp, hành chính, kinh tế và tôn giáo là những sản phẩm văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần độc đáo và phát triển cao của đời sống xã hội truyền thống của người Kinh.

Tổ chức gia đình người Kinh là những tế bào xã hội đặt trong các làng mạc. Từ rất xa xưa, đó đã là những gia đình nhỏ, nhưng hai, ba thế hệ, theo chế độ phụ quyền, địa vị quan trọng, tương xứng và thích họp với cơ sở là nền kinh tế tiểu nông.

Tổ chức Nhà nước sơ khai với hình thức giản đơn theo kiểu ''Phương thức sản xuất Châu á'', nhưng về sau từ thế kỷ XII trở đi càng ngày càng mang đậm tính chất phong kiến quý tộc, và từ nhà Lê (thế kỷ XV) thì trở thành phong kiến quan liêu.

Làng - nước trong thiết chế chính trị xã hội cổ truyền người Kinh, có một quan hệ gắn bó đặc biệt, hết sức chặt chẽ, về nghĩa vụ nhưng tương đối lỏng lẻo về tổ chức, khiến cho làng gần như được tự quản mà thực hiện trách nhiệm của mình đối với quốc gia. Mỗi thành viên của dân tộc Kinh, do đấy đều có nghĩa vụ kép với làng với nước: ''Trong làng, ngoài nước''. Các đô thị của người Kinh cổ truyền không nằm ngoài mối quan hệ làng - nước ấy. Mặc dù xuất hiện từ rất sớm và trải qua nhiều thế kỷ, đã có số lượng nhiều và quy mô tương đối lớn như: Kinh Kỳ, Phố Hiến, Hội An, Gia Định v.v..., nhưng chưa làm biến đổi được tính chất xã hội, mà chỉ dừng lại dưới hình thức những trung tâm cùng thương nghiệp tiền tư bản.

5. Sinh hoạt tinh thần

Đời sống tinh thần của người Kinh dựa trên cơ sở sinh hoạt vật chất mà xã hội cư dân nông nghiệp lúa nước. Chưa hình thành được một hệ thống chữ viết riêng; phải dùng chữ Hán rồi tạo thân chữ Nôm từ thế kỷ XIV dùng chữ La Tinh phiên âm tạo ra chữ Quốc ngữ thế kỷ XVI ; chưa hình thành một hệ thống lý thuyết rõ ràng chặt chẽ về tư tưởng, mà chỉ dựa trên những truyền thống của tư duy nguyên thủy và trí tuệ, đạo đức dân gian trải qua các thế hệ, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của Phật, Lão, Nho biến hóa và Việt hóa chúng cũng như thích hợp nhiều yếu tố văn hóa của các dân tộc láng giềng, của cả Đông Nam Á và cũng tương tác ảnh hưởng trở lại những nơi đó, nên đã xây dựng được một nền văn hóa tinh thần phong phú, độc đáo mang đậm bản sắc Việt Nam từ những thế kỷ trước Công nguyên và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là bộ phận chủ yếu của nền văn minh Đông Sơn hoặc văn minh Lang - Âu Lạc. Chính nền văn hóa đó mang đậm sắc Việt Nam đó đã góp phần bảo vệ dân tộc Kirth chống lại sự đồng hóa áp đặt rất khốc liệt của phong kiến Hán Tộc suốt thiên niên kỷ I, sau Công nguyên và cho đến đầu thiên niên kỷ II thì được phục hưng, bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ cùng với việc khôi phục lại chủ quyền độc lập của dân tộc Việt được mệnh danh là văn hóa Thăng Long- một bộ phận của nền văn minh Đại Việt. Cho đếm lúc ấy đấy vẫn là một văn hóa mang đậm tính dân gian. Đến giữa thiên niên kỷ II sau Công nguyên mới hình thành thêm dòng văn hóa cung đình, văn hóa bác học. Dòng văn hóa nay có sự giao lưu qua lại và chịu ảnh hưởng lẫn nhau giữa các văn hóa Đại Việt và văn hóa Nho học Trung Hoa và tương tác qua lại với dòng văn hóa dân gian Việt nam trong thời kỳ phát triển vào cuối thiên niên kỷ II của văn hóa dân tộc Việt .

Từ những chiếc trống đồng Lạc Việt cổ niên đại trước Công Nguyên, đến những truyền thuyết về Bà Trưng, bà Triệu vào đầu Công Nguyên, từ những ngôi chùa thế kỷ XI, đến những khu đình làng ở thế kỷ XVII, từ những câu ca dao, tục ngữ đến những làn điệu dân ca ''Trống quân'', ''Quan họ'', ''Hát bài chòi'', ''Ca lý'', từ Thiền Tây Trúc Lâm - Yên Tử thế kỷ XIII đến tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời chân lý của Nguyễn Trãi thế kỷ XV, từ những phong tục thờ cúng tổ tiên, đến tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và những vị anh hùng dân tộc có công dựng nước và giữ nước với ý nghĩa tìm về cội nguồn dân tộc, từ ''Đại Việt sử ký'' của Lê Văn Hưng đến ''Truyện Kiều'' của Nguyễn Du - vị thi thánh Tiên Điền v.v... những văn hóa tinh thần của dân tộc Kinh là hình ảnh của bản lĩnh, bản sắc dân tộc hàm chứa các yếu tố: đoàn kết, dân chủ, phác thực, hài hòa, trung hậu, thủy chung, nhân ái, cần cù, kiên trì, bất khuất trong đấu tranh, sáng tạo trong lao động, vị tha, rộng mở trong giao lưu...

Cùng với lối sống trong các cộng đồng làng xã của cư dân nông nghiệp, người Kinh còn là một dân tộc trong một lịch sử của mình, cùng chung lưng đấu cật với các dân tộc anh em mưu trí dũng cảm và thông minh với những đế quốc hùng mạnh vào bậc nhất của thế giới để bảo vệ toàn vẹn nền độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và toàn vẹn lãnh thổ của mình, Để hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng đó người Kinh đã đoàn kết được các dân tộc anh em khác cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam cùng đứng lên tiến hành hàng trăm lần khởi nghĩa và kháng chiến với tổng thời gian kéo dài đến 12 thế kỷ để rồi đi đến thắng lợi to lớn, trọn vẹn như ngày nay. Từ trong thực tế lịch sử của các cuộc khởi nghĩa và kháng chiến đó cho thấy dân tộc Kinh là một dân tộc quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do, tha thiết với hòa bình, nhân ái cũng từ trong khói lửa của các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh vệ quốc đó, người Kinh đã sáng tạo được một phương thức chiến tranh nhân dân từ rất sớm, hun đúc được một một tinh thần yêu nước nồng nàn, sản sinh ra rất nhiều anh tài chính trị - quân sự xuất sắc của các thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Hồ Chí Minh - những người đã làm rạng rỡ thêm lịch sử dân tộc.

Người Kinh là một dân tộc có tính thống nhất chặt chẽ, đóng vai trò chủ thể của đất nước Việt Nam tập hợp, đoàn kết các dân tộc anh em trong suốt lịch sử trường kỳ bốn nghìn năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Chính trong hoàn cảnh đầy thử thách hiểm nghèo nhất, trong sự đối phó với sự tồn vong của dân tộc, tư tưởng nhân ái "Không có gì quý hơn độc lập tự do'', tinh thần đoàn kết, đại đoàn kết đã được phát huy đến cao độ, tạo nên sức mạnh tinh thần để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Từ cuối thế kỷ XIX, đất nước Việt Nam bị Thực dân Pháp xâm lược, thống trị, người Kinh đã cùng các dân tộc anh em đoàn kết, đấu tranh, giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ sớm nhất ở Đông Nam á, lật đổ ách thống trị của Phát xít Nhật và Thực dân Pháp vào tháng 8 năm 1945, liên tiếp tiến hành hái cuộc kháng chiến thần thánh chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược, giành lại nền độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc năm 1975 và đánh thắnS cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và phía Tây của đất nước.

Trong quá trình đấu tranh Cách mạng lâu dài và gian khổ đó người Kinh dần dần tiếp xúc rộng rãi với phương Tây, với nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt qua con người ưu tú - nhân vật lịch sử vĩ đại và thân yêu nhất của dân tộc mình là Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê Nin làm cho nó trở thành hệ tư tưởng chính thống, hiện đại của dân tộc Việt Nam, đưa cả cộng đồng các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1986 đến nay thực hiện chính sách đồi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước Việt Nam, nhân dân các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn. Trên cơ sở đó, hiện nay, đang đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Xã hội cổ truyền của người Kinh ngày càng tiến theo hướng đổi mới- cách tân. Những đặc điểm và giá trị truyền thống của người Kinh đang biến đồi bằng cách chọn lọc những tinh hoa văn hóa của dân tộc mình, tiếp thu những yếu tố tiến bộ của nền văn hóa các dân tộc anh em ở Việt Nam và các dân tộc khác trên thế giới, cải tạo và phát huy để xây dựng một cộng đồng người Kinh mới giữa đại gia đình các dân tộc Việt Nam trong thời đại xã hội, xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

 

 

Trang trước   || MỤC LỤC ||   Trang sau

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ẦP Hà Đông được hình thành năm 1938

Trở lại đoạn vừa đọc

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ẦP Nghệ Tĩnh được thành lập năm 1940

Trở lại đoạn vừa đọc