|
||
PHẦN THỨ TƯ VĂN HÓA XÃ HỘI CHƯƠNG II: QUY HOẠCH VÀ KIẾN TRÚC
KIẾN TRÚC 2. CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC Nói đến cảnh quan đô thị Đà Lạt, không thể không nói đến cảnh quan thiên nhiên và nghệ thuật bố trí công trình kiến trúc cũng như kiểu dáng đa dạng của kiến trúc. Đặc điểm của các công trình kiến trúc tiêu biểu của thành phố Đà Lạt là biết dựa vào môi trường thiên nhiên hiện hữu, nhẹ nhàng nép mình vào khung cảnh chung, tạo lập một công trình có dáng dấp như là một sản phẩm của tự nhiên, một bông hoa kiến trúc nở mọc lên từ đất. Tất cả các kiến trúc đẹp ở Đà Lạt đều chọn lựa bố cục tổng thể theo hình khối nằm ngang ổn định, gắn kết chặt chẽ với mặt đất, địa hình của địa điểm và khu vực chung quanh. Về phong cách và ngôn ngữ kiến trúc, chúng ta nhận thấy các công trình kiến trúc thời thuộc Pháp đều có cơ sở thiết kế phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương và với điều kiện sinh hoạt của cư dân. Vì vậy kiến trúc Đà Lạt mang một dáng vẻ rất riêng. Qua thời gian dài xây dựng thành phố, phong cách kiến trúc đã có nhiều thay đổi, từ phong cách kiến trúc thuộc địa tiền kỳ đơn giản với những cửa cuốn vòm, hành lang bao quanh mặt bằng hình chữ nhật; phong cách tân cổ điển với những trang trí phong phú sáng tạo với những kiểu lợp mái bản thạch và cửa sổ tròn trên mái; phong cách kiến trúc địa phương Pháp thể hiện ở các kiểu biệt thự; phong cách kiến trúc hiện đại với những đường nét ngang bằng sổ thẳng. Nhưng nói như thế không có nghĩa là kiến trúc Đà Lạt là kiến trúc Pháp thuần túy. Nếu cho rằng Đà Lạt mang dấu ấn của các nhà kiến trúc Pháp thì ngược lại, các nhà kiến trúc này, khi sáng tác thiết kế cho các công trình ở Đà Lạt, cũng đã chịu ảnh hưởng của đặc điểm thiên nhiên Đà Lạt, nhất là các điều kiện về khí hậu thời tiết, cảnh quan môi trường. Hiện tượng giao lưu này là điều đương nhiên. Những kiến trúc ở Đà Lạt đã được sáng tạo từ nguồn cảm hứng địa phương để tạo dựng thành kiểu kiến trúc riêng độc đáo đầy bản sắc. Có thể tạm phân biệt kiến trúc Đà Lạt theo những phong cách sau: - Phong cách tân cổ điển. - Phong cách hiện đại chịu ảnh hưởng trào lưu hiện đại châu Âu 1920-1930. - Phong cách kiến trúc địa phương Pháp. - Phong cách kiến trúc kết hợp địa phương đậm đà màu sắc dân tộc; phong cách kiến trúc khai thác đặc điểm địa phương, dân tộc bản địa, kết hợp kỹ thuật xây dựng mới để tạo thành kiểu kiến trúc mới đầy sáng tạo. - Phong cách kiến trúc cách tân tìm tòi thử nghiệm tính dân tộc cho kiến trúc hiện đại. - Ngoài ra còn có khuynh hướng sao chép pha trộn các chi tiết của các trào lưu khác nhau không có trật tự nhất định. 2.1 Công trình công cộng 2.1.1 Xí nghiệp Bản đồ Đà Lạt Xí nghiệp Bản đồ Đà Lạt nằm ở số 14, đường Yersin, phường 10, Đà Lạt, giáp với Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt và cách nhà ga xe lửa không xa. Công trình được xây dựng từ năm 1939 và hoàn thành năm 1943. Ngày 5-7-1894, Sở Địa dư Đông Dương được thành lập, trụ sở đặt tại Hà Nội. Đến năm 1940, sở được dời vào Gia Định. Cuối năm 1944, sở dời lên Đà Lạt với nhiệm vụ sản xuất và phát hành các loại bản đồ phục vụ cho cả 3 nước Đông Dương. Ngày 1-4-1955, Nha Địa dư quốc gia được thành lập. Đây là một công trình đồ sộ, mang sắc thái của một công trình hành chính có hình thức thể hiện theo kiểu kiến trúc hỗn hợp. Diện tích toàn bộ khuôn viên của Xí nghiệp Bản đồ Đà Lạt rộng 30.670m2, nằm trên một sườn đồi dốc thoải. Mặt bằng công trình chịu ảnh hưởng của kiến trúc cổ điển với 2 trục đối xứng ngang và dọc, tổ hợp theo kiểu hành lang giữa. Có một tầng hầm dùng làm kho bản đồ. Tầng trệt ở đây có hai dãy phòng hành chính ở hai bên hành lang, trung tâm là tiền sảnh và phòng tiếp khách, hai khối cầu thang và vệ sinh bố trí đối xứng hai đầu. Ở tầng hai là các phòng kỹ thuật chiếm một không gian rộng lớn. Ngoài ra, còn có tầng áp mái được dùng làm kho phụ. Phân vị ngang được thể hiện rõ nét trên mặt đứng công trình. Dưới tầng trệt có những cửa sổ vòm kích thước lớn, những khung cửa sổ vuông vức đều nhau được bố trí ở tầng hai. Nhìn chung, dãy nhà làm việc chính án ngữ mặt tiền có hình khối gần như vuông vức. Toàn bộ tường xây bằng gạch đá dày gần 1m, mái lợp ngói với độ dốc khá lớn theo kiểu kiến trúc vùng Normandie (miền Bắc nước Pháp) tạo cho công trình đầy vẻ uy nghi, quyền lực, phù hợp với tính chất của một công trình hành chính quốc gia. Trong nội thất xuất hiện hệ vòm cuốn tại các bước nhịp (theo dạng cuốn trong kiến trúc Roman) để phân chia không gian, làm giảm bớt không khí nặng nề của các phòng kỹ thuật, đồng thời tạo cảm giác hành lang giao thông dường như ngắn lại. Kết nối giữa sảnh chính của công trình với sân là những bậc thang đặt trên hệ kết cấu vòm bằng đá, trông thật duyên dáng và ấn tượng. Vòm cong của cầu đá kết hợp với đường cong nhẹ nhàng của con đường trải nhựa tạo ra một nét duyên riêng của Xí nghiệp Bản đồ Đà Lạt. Đây cũng là điểm đặc sắc của công trình, làm cho nó khác với những công trình hành chính thông thường.
Bên cạnh đó, giống như công trình nhà ga xe lửa, hình dáng chung của khối nhà này được phỏng theo dáng dấp của một dãy núi cao, phần mái ở hai đầu hồi nhô cao hơn lên, tựa như dáng núi Lang Biang. 2.1.2 Chi cục thuế Chi cục thuế Lâm Đồng nguyên là Ngân khố, là một trong những công trình có mặt sớm ở Đà Lạt, nằm ở góc đường Hà Huy Tập – Trần Phú, xây dựng năm 1915, do nhà thầu Julien thực hiện. Tầng hầm được xây kiên cố để làm kho an toàn chứa tiền bạc. Kiến trúc điển hình kiểu vùng Normandie: khung sườn gỗ sơn màu sẫm, xây tường lấp bằng gạch quét vôi màu nhạt, mái lợp ngói, có mái nhỏ bẻ góc,...
2.1.3 Trụ sở Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng Trụ sở Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng nguyên là Dinh Thống đốc Nam Kỳ, là một trong những công trình đầu tiên sớm có mặt ở Đà Lạt, về sau này chuyển thành Toà Hành chánh tỉnh Tuyên Đức.
Dinh Thống đốc Nam Kỳ Đây là khu vực có vị trí cao và đẹp nhất trục đường trung tâm chính của thành phố Đà Lạt. Từ đây, tầm nhìn bao quát cả toàn vùng, về phía bắc trải dài đến núi Lang Biang, về phía Nam là cảnh quan rừng thông bạt ngàn. Kiến trúc công trình theo dáng dấp kiểu kiến trúc thuộc địa với tầng trệt xây toàn bằng đá gồm các phòng phụ thuộc, tầng chính ở bên trên có cầu thang ngoài trời và hành lang rộng rãi với cột bao quanh hướng mở tầm nhìn toàn cảnh về núi Lang Biang. 2.1.4 Nhà ga xe lửa Đà Lạt Ga hỏa xa Đà Lạt do kiến trúc sư Revéron thiết kế với khái niệm sáng tác theo hình thức kiến trúc Anglo-normand mới, chịu nhiều ảnh hưởng của kiểu kiến trúc hiện đại. Kiến trúc sư Moncet đã hoàn chỉnh thêm một số chi tiết của hồ sơ thiết kế này và giám sát công trình. Kỹ sư Porte trực tiếp trông coi xây cất công trình kỹ thuật đường sắt. Đơn vị thi công là nhà thầu Võ Đình Dung. Công trình khởi công năm 1932 và hoàn thành năm 1938. Đây là lần đầu tiên người ta đưa yếu tố mỹ thuật kiến trúc và ý nghĩa của công trình vào việc xây dựng một công trình có tính kỹ thuật. Từ nhà ga, tuyến đường sắt độc đáo vượt địa hình có bộ phận chuyên dụng móc răng cưa nối liền Đà Lạt với mọi miền đất nước qua ga Tháp Chàm đã được khai thông. Toàn bộ khu vực ga nằm trên một khu vực bằng phẳng và rộng rãi. Nhà ga có chiều dài 66m, chiều rộng 11,5m, chiều cao đại sảnh 11m. Mặt bằng được tổ chức theo nguyên tắc gần như đối xứng qua một trục vuông góc với mặt tiền: một phòng lớn ở giữa (37m x 10m) và các phòng phụ nhỏ nối dài sang hai bên. Bố cục đăng đối thể hiện giữa các bộ phận kiến trúc: ở mái ngói đỏ cao vút, những phần mái gấp, mái bẻ góc và ở những ô cửa sổ cùng với bức tường xây bằng đá chẻ tới ngang bệ cửa. Sự đồ sộ của công trình thể hiện rõ trên mặt cắt: hệ vì kèo đỡ mái bằng bê tông cốt thép có chiều cao hơn 6m, bằng với chiều cao của không gian sử dụng chính. Ấn tượng nhất vẫn là toàn bộ khối mái công trình. Đập ngay vào mắt người thưởng thức là 3 chóp mái tiếp nối liền nhau chạy suốt từ đỉnh xuống bờ mái đón ở lối vào sảnh chính. Phía dưới của chóp mái có gắn nổi dòng chữ DALAT khá lớn. Vuông góc với 3 mái theo chiều ngang của công trình là 2 mái dọc chạy về 2 phía và bẻ góc ở phần rìa mái. Tương ứng với 3 chóp mái là 3 cửa sổ với nhiều ô kính nhỏ, tạo nên sự khoáng đạt cho mặt tiền và cho cả tòa nhà. Các ô cửa sổ bằng kính màu nằm ngay ngắn trong hệ khung ô vuông đều đặn. Tất cả các chi tiết trang trí đều thực sự đơn giản, toát lên vẻ hiện đại của tổng thể công trình. Toàn bộ khối nhà tạo cho ta sự liên tưởng tới những đỉnh núi nhấp nhô của vùng đất cao nguyên. Không gian nội thất được chiếu sáng lung linh bởi các ô cửa kính nhiều màu ở phần chân mái. Đây chính là phòng chờ cho hành khách, một không gian rộng lớn với các góc cạnh và đường nét ngay hàng thẳng lối, vừa uy nghi cao cả nhưng cũng thật giản dị.
Đây là một công trình có kiến trúc đẹp và độc đáo của thành phố Đà Lạt và của cả nước ta. Trước đây, nhà ga Đà Lạt đã từng được đánh giá là một trong những nhà ga đẹp nhất Đông Dương. Ngày 28-12-2001, Bộ Văn hoá – Thông tin đã ra quyết định công nhận ga Đà Lạt là Di tích Kiến trúc Quốc gia. 2.1.5 Nhà Thủy Tạ
Vào năm 1919, khi Hồ Lớn (Grand Lac) được tạo lập để tạo cảnh quan trung tâm Đà Lạt, kiến trúc sư Hébrard đã không quên nhấn nhá thêm một nét duyên cho mặt hồ, và một đảo nhỏ hình oval gần như tròn (d = 6468m) đã hình thành, là điểm kết không gian của trục đường đi dạo từ khách sạn Palace để tiếp cận không gian mặt nước của hồ. Đầu tiên, một nhà sàn bằng gỗ xinh xắn như mời chào những khách nhàn du muốn dừng chân câu cá. Một thời gian sau, vào khoảng đầu thập niên 1930, nhà Thủy Tạ với chức năng là một Câu lạc bộ thể thao dưới nước (bơi lội, thuyền chèo,...) đã được xây dựng với kiến trúc tuy nhỏ mà độc đáo, có hình dạng tựa một tổ ếch (grenouillère), cấu trúc nhà sàn trên cột như bay bỗng trên mặt nước. Hệ thống cầu nhảy ba cấp cao với mặt đứng chỉ gồm những nét thẳng dứt khoát và thanh mảnh. Sau đó do nhiều nguyên nhân, phong trào thể thao bơi lội ở Đà Lạt không phát triển được, Câu lạc bộ được giao thầu khai thác như một quán giải khát nhỏ. Sau 1975, nhà Thuỷ Tạ trở thành một nhà hàng nhỏ dưới sự quản lý điều hành của Công ty Du lịch Lâm Đồng. Công trình kiến trúc nhà Thuỷ Tạ luôn được tô điểm với màu vôi trắng như nổi lên những màu xanh của quang cảnh thiên nhiên và đã trở thành một hình ảnh đặc trưng của Đà Lạt. 2.1.6 Viện Nghiên cứu hạt nhân Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử Đà Lạt là công trình hiện đại do Mỹ viện trợ, được chọn lựa xây dựng trên một ngọn đồi rộng 21ha, nằm ở phía đông bắc trung tâm Đà Lạt. Công trình này được dư luận báo chí đương thời quan tâm giới thiệu rộng rãi cả trong và ngoài nước. Đồ án Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử Đà Lạt được xây dựng từ năm 1961, do KTS Ngô Viết Thụ đảm nhận cùng các KTS phụ tá: KTS Nguyễn Mỹ Lộc, KTS Phạm Quỳnh Lân, KTS Vũ Tòng. Người Mỹ cung cấp một đồ án kiểu mẫu, theo đó lò nguyên tử sẽ đặt trong một toà nhà vuông nối tiếp là những khối chữ nhật dành cho các phòng vật lý và hoá học.
KTS Ngô Viết Thụ đã phát biểu trong một cuộc họp báo: “... Đã có sáng kiến sửa đổi hình thức bên ngoài các toà nhà để trước hết được thích hợp với phong cảnh đồi núi xung quanh và sau là để phù hợp với nền văn minh cổ truyền của chúng ta. Vì vậy nên toà nhà vuông chứa lò nguyên tử đã trở thành hình ống, toạ lạc giữa một cái cung tròn gồm có những phòng vật lý và hoá học. Khoảng trống giữa khung tròn và toà nhà hình ống chứa lò nguyên tử đã được biến thành một biểu tượng cho bát quái đồ, hình tròn trong đó có sự kết hợp giữa lối kiến trúc tối tân của thời đại nguyên tử và lối kiến trúc cổ truyền”. Lời nói đó nói lên ý đồ sáng tạo của các nhà kiến trúc: kết hợp hài hoà giữa công năng công trình kiến trúc với cảnh trí thiên nhiên của Đà Lạt. Lò nguyên tử TRIGA Mark II hình tròn, bán kính 10m, nhô lên với một khối hình ống có điểm những trụ đứng mảnh chia nhỏ mặt tường lớn khô khan. Xung quanh hạt nhân trung tâm đó là những hạng mục kiến trúc xen kẽ cách ly bằng thảm cỏ vườn hoa, nối kết với nhau nhờ những đường hành lang theo hình tròn và đường trục xuyên tâm. Lò phản ứng được đưa vào vận hành từ tháng 3-1963 với công suất 250 kW, là loại lò TRIGA Mark II do hãng General Atomic của Mỹ chế tạo. Ba mục tiêu chính của lò là nghiên cứu, huấn luyện, sản xuất đồng vị (chữ viết tắt TRIGA gồm: T - Training, R - Research, I - Isotope production, GA - General Atomic). Diện tích xây dựng công trình gần 2.000m2, kinh phí xây dựng khoảng 22.000.000 đồng (tiền Sài Gòn cũ); giá trị thiết bị nhập là 700.000 USD. Sau ngày giải phóng, trên cơ sở cũ, Viện Nghiên cứu hạt nhân được thành lập theo Quyết định số 64/CP ngày 26-4-1976 của Thủ tướng Chính phủ. Được sự giúp đỡ của Liên Xô, sự tài trợ của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), Nhà nước đã đầu tư công trình khôi phục và mở rộng lò phản ứng hạt nhân. Ngày 20-3-1984, lò phản ứng với tên mới IVV-9 chính thức đi vào hoạt động với công suất 500 kW, tăng gấp hai lần so với trước. 2.1.7 Viện Sinh học Tây Nguyên Viện Sinh học Tây Nguyên nguyên là tu viện Dòng Chúa cứu thế, nằm ở phía tây bắc thành phố Đà Lạt ở độ cao 1548m, thuộc khu đất có diện tích 35ha, do Jean O’Neill khai thác từ năm 1925. Năm 1942, ông Jean Baptiste Cassaigne, Giám mục Sài Gòn đứng tên mua lại. Năm 1948, các cha Dòng Chúa cứu thế khởi công xây dựng tu viện này, đến năm 1952 hoàn thành. Đường dẫn từ đường chính vào tu viện dài hơn 500m tiếp cận một sân rộng rãi và bằng phẳng, có tầm nhìn thoáng đảng. Công trình theo kiểu kiến trúc mới, nhưng có bố cục hình khối đối xứng, cao 4 tầng với một tầng hầm ở về phía sườn đồi thấp. Mặt ngoài, phần lớn được xây ốp đá kiểu, tạo cảm giác rất vững chắc và bề thế. Lối vào chính nằm giữa trục chính của toà nhà, được nhấn mạnh bằng khối mái đón vươn hẳn ra ngoài, được đỡ bằng 2 trụ xây đá kiểu vừa to vừa mạnh mẽ. Các tiện nghi kỹ thuật rất hiện đại vào thời đó: sử dụng hầm khí sinh vật (biogaz) cung cấp khí đốt, hệ thống bơm nước từ thung lũng suối đưa lên công trình. Sau ngày đất nước thống nhất, chính quyền địa phương đã sử dụng cơ sở này cho các hoạt động công ích. Đến ngày 5-9-1978, công trình được chuyển giao cho Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Đà Lạt (nay là Viện Sinh học Tây Nguyên). 2.1.8 Công ty Vắc-xin Pasteur Đà Lạt Công ty Vắc-xin Pasteur Đà Lạt nguyên là Viện Pasteur Đà Lạt.
Viện Pasteur Đà Lạt - viện Pasteur cuối cùng trong các viện Pasteur ở Đông Dương - được khánh thành ngày 1-1-1936. Ngoài việc sản xuất vắc-xin, Viện Pasteur Đà Lạt còn có nhiệm vụ xét nghiệm nước và thực hiện các xét nghiệm khác về giải phẫu bệnh học, xác định sức khoẻ của người dân trên toàn vùng cao nguyên, không chỉ riêng cho Đà Lạt. Kiến trúc của Viện Pasteur Đà Lạt chịu nhiều ảnh hưởng của trào lưu kiến trúc mới. Công trình được tổ hợp bởi những mảng khối hình chữ nhật. Sử dụng các hình khối mạnh mẽ, đường nét đơn giản, rõ ràng. Mặt đứng phản ánh khá trung thực cấu trúc của mặt bằng. Hệ mái bằng có phần tường xây cao hơn mái hắt là một nét mới trong hình thức kiến trúc thời kỳ này. Ôvăng đưa ra xa, xử lý thoát nước bằng hệ thống sênô đúc bêtông cốt thép. Toàn bộ cửa sổ đều có hình vuông vức, duy nhất một cửa sổ tròn nhấn mạnh ở vị trí lối vào chính. 2.1.9 Chợ Đà Lạt Năm 1929, một ngôi chợ bằng gỗ, mái lợp tôle, có tên gọi là Chợ Cây được xây cất tại vị trí khu Hoà Bình hiện nay, thay cho khu họp chợ ở ấp Ánh Sáng. Chợ và khu vực chung quanh đã tạo nên một trung tâm rất sôi động của sinh hoạt thành phố lúc bấy giờ. Năm 1937, một trận hoả hoạn lớn xảy ra, thiêu rụi chợ với hàng quán chung quanh. Sau đó, nhà cầm quyền đương thời cho xây dựng lại ngôi chợ mới bằng gạch khang trang, đáp ứng nhu cầu mua bán sinh hoạt cho hơn 6.500 người dân. Công tác này được nhà thầu SIDEC đảm nhận. Chợ Đà Lạt hoàn thành một thời được xem như là biểu tượng của thành phố cao nguyên. Ngay mặt tiền ngôi chợ, trên tường đầu hồi (fronton) có gắn nổi huy hiệu thành phố hình tròn, tạc hình một đôi thanh niên nam nữ người dân tộc, người nữ mang gùi, người nam tay cầm ngọn giáo nhắm vào một con cọp. Bên dưới có một câu cách ngôn bằng tiếng latin chiết tự khéo léo thành danh xưng Dalat: Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem có nghĩa là cho người này niềm vui, cho người khác sự mát mẻ. Họa báo Châu Á mới (L’ Asie nouvelle illustrée), số 56, xuất bản năm 1937 đã có bài viết về ngôi chợ: “Ngôi chợ này tuy kiến trúc giản dị, nhưng rất độc đáo”. Ngôi chợ đã trở thành biểu tượng của Đà Lạt, một hình ảnh quen thuộc trong ký ức của những người từng sống lâu năm ở đây. Sau năm 1954, Đà Lạt trở nên đông đúc với số dân hơn 53.000 người. Năm 1958, chính quyền Sài Gòn đã cho chỉnh trang lại khu vực trung tâm thương mại. Vùng đất trống dưới thung lũng được tính toán xây dựng một ngôi chợ mới có 2 tầng và một sân thượng. Vào lúc đó, đây là một trong những ngôi chợ lầu đầu tiên ở Việt Nam. Công trình do KTS Nguyễn Duy Đức thiết kế, nhà thầu Nguyễn Linh Chiểu đảm nhận thi công. Khi KTS Ngô Viết Thụ từ Pháp về, ông được mời tham gia đồ án chỉnh trang tổng thể khu vực thung lũng từ cầu Ông Đạo trở vô. Ông thiết kế bổ sung một cầu thang lớn nối từ khu Hòa bình vào tầng lầu của chợ, các dãy phố buôn bán và hệ thống đường giao thông bao quanh. Riêng về ngôi chợ cũ, cùng thời gian đó, được thiết kế cải tạo thành rạp hát Hòa Bình với các cửa hàng thương mại dịch vụ chung quanh. Đồ án thiết kế do hai KTS Huỳnh Kim Mãng và Lâm Du Tốt thiết lập. Năm 1993, nhân kỷ niệm 100 năm Đà Lạt hình thành và phát triển, chợ Đà Lạt được chỉnh trang nâng cấp mở rộng như hiện nay. 2.2 Khách sạn 2.2.1 Hôtel du Lac Năm 1907, khách sạn đầu tiên ở Đà Lạt được xây dựng theo dạng “Châlet” bằng gỗ mái lợp tôle dợn sóng có tên là Sala, sau này đổi tên là Hôtel Desanti, cuối cùng đổi tên là Hôtel du Lac (Khách sạn bên hồ) khi hồ lớn được hoàn thành vào năm 1919. Lúc xưa đó là một quần thể kiến trúc gồm nhiều nhà nghỉ biệt lập nhỏ (Bungalow), nằm rải rác trong một công viên rộng rãi tiếp cận bờ hồ, được nối liền nhau nhờ một con đường nhỏ dẫn về nhà đón tiếp có quy mô lớn hơn. Hiện nay vị trí khách sạn này là khách sạn Hàng không.
2.2.2 Sofitel Dalat Palace Langbian Palace là một công trình kiến trúc có tầm cỡ được xây dựng sớm nhất ở Đà Lạt với ý đồ trang bị cho “Thủ phủ Đông Dương” một nơi đón tiếp du khách có đầy đủ tiện nghi. Năm 1916, Toàn quyền Roume đã cho xây dựng một đại khách sạn và khách sạn Langbian Palace đã được khai trương vào năm 1922. Khuôn viên khách sạn rộng đến 40.320m2, xung quanh công trình là vườn hoa, cây cảnh, thảm cỏ và rừng thông. Xét về vị trí xây dựng thì khách sạn này có ưu thế rất lớn. Nằm trên vị trí đã được quy hoạch dành riêng cho mình, công trình có một cảnh quan kiến trúc tuyệt diệu. Cận cảnh là khuôn viên nhà Thủy Tạ, hồ Xuân Hương, đồi Cù,… Hậu cảnh là dãy núi Lang Biang xanh thẫm. Tất cả các yếu tố này cùng hòa quyện với nhau trong một tổng thể thống nhất, thật ấn tượng và quyến rũ. Cũng như những công trình kiến trúc khác trong tổng thể quy hoạch chung đương thời, khách sạn Palace được thiết kế có mặt tiền hướng về phía núi Lang Biang. Nét độc đáo và bất ngờ nhất là tầm nhìn từ mặt đứng chính của công trình ôm trọn chiều dài lớn nhất của lòng hồ uốn lượn theo hình dạng đồi Cù. Có một hệ thống bậc thang trải dài theo sườn đồi, từ phía Hồ Xuân Hương đến tận lối vào chính. Chi tiết này làm cho khách sạn Palace thêm phần uy nghi, duyên dáng mà những khách sạn khác không có được.
Khách sạn Palace được xây dựng theo hình thức kiến trúc hiện đại kết hợp với trường phái cổ điển. Khách sạn gồm 3 tầng, phần tầng trệt nhô cao hơn mặt sân để tạo thêm một tầng hầm và lối vào với hệ thống bậc thang sang trọng. Là một công trình phát triển theo chiều dài, khối chính giữa nhô cao 3 tầng với hệ mái bằng, hai khối ở hai bên thấp hơn một tầng và mái lợp ngói. Mặt bằng hoàn toàn đối xứng qua hai trục vuông góc. Nội thất được chia làm hai dãy phòng với một hành lang giữa. Các phòng khách, phòng họp có diện tích rộng, trang trí sang trọng nhưng vẫn tạo được cảm giác ấm cúng. Các phòng ngủ bố trí đều theo mạng lưới cột 6m x 8m, được bày biện theo bố cục nội thất của các “Palace” Tây phương, với lò sưởi đốt củi và các tiện nghi sinh hoạt hiện đại. Bên cạnh các phòng ngủ còn có phòng khánh tiết dùng cho hội họp, tiếp kiến, họp báo sang trọng. Khách sạn càng thêm phần lộng lẫy bởi những dãy đèn chùm quý dọc các hành lang. Cầu thang khách sạn được ốp gỗ và trang trí rất sang trọng. Cũng như đa số các công trình khác ở Đà Lạt, tại đây sàn nhà bằng bêtông cốt thép ốp gỗ cứng (sàn parquet) và vật dụng nội thất đều làm bằng gỗ, một loại vật liệu có rất nhiều ở địa phương. Những yếu tố hiện đại ở mặt bằng kể trên lại được đặt trong hệ kết cấu bao che với những trang trí theo hình thức kiến trúc cổ điển. Mặt đứng được tô điểm với nhiều họa tiết trang trí trau chuốt trên khung cửa sổ, nhất là phần sát mái. Mái hắt trên tầng hai chạy viền xung quanh khối nhà, phía dưới có dãy trụ đỡ tạo nên những điểm nhấn nhẹ nhàng, giảm bớt sự nặng nề của một khối công trình vuông vức. Sân thượng được viền quanh bằng tường chắn xây kép. Đặc biệt trên mặt đứng không thấy xuất hiện hệ thống balcon hay logia như vẫn thường thấy trong kiến trúc khách sạn. Đúng như tên gọi của mình, khách sạn này mang dáng dấp của một cung điện nguy nga. Tọa lạc trên một ngọn đồi nhỏ nhìn xuống hồ Xuân Hương thơ mộng, khách sạn Palace như một tòa lâu đài tráng lệ nổi bật giữa thảm cỏ mượt mà, như một dấu chứng kiến trúc mang đậm hình thức kiến trúc châu Âu đầu thế kỷ XX. 2.2.3 Novotel Dalat Nằm trên đường Trần Phú, khách sạn Novotel Dalat nguyên là khách sạn Hôtel du Parc (Khách sạn Hoa viên) xây dựng vào năm 1932 và được thiết kế theo kiểu kiến trúc hiện đại. Mặt bằng công trình có bố cục hợp khối hình chữ nhật, theo kiểu bố trí khách sạn kinh điển: hành lang ở giữa, các phòng khách sạn ở hai bên, được hưởng đầy đủ ánh sáng và khí trời tự nhiên. Có một trục đối xứng vuông góc với sảnh chính, hai khối ở hai đầu hồi có kích thước mở rộng hơn. Khách sạn gồm bốn tầng, trong đó có một tầng hầm. Chính giữa tầng trệt là đại sảnh có salon thư giãn tiếp khách. Giao thông đi lại gồm cầu thang bộ và thang máy, hai đầu có thêm hai khối thang phụ phòng khi thoát hiểm. Ở các tầng trên, các phòng ngủ được bố trí hai bên hành lang giữa. Đặc biệt mỗi phòng đều có một tiền phòng (phòng đệm) sang trọng, tạo không gian chuyển tiếp đổi hướng tránh tầm nhìn chính diện vào giường ngủ, sàn phòng và đa số các vật dụng làm bằng gỗ. Mặt đứng sử dụng những đường nét mạnh mẽ, vuông vức. Không có sự xuất hiện của hệ balcon hay logia. Trên cùng là mái lợp ngói nhưng độ dốc rất nhỏ. Hệ console bằng bêtông cốt thép đỡ mái hắt vươn ra khoảng 1,5m, đặc biệt là sự góp mặt của diềm mái ngói thay cho ôvăng cửa sổ ở tầng trệt - một hình thức kiến trúc dân gian Việt Nam đã được đưa vào công trình. 2.2.4 Khách sạn Du lịch Công đoàn Khách sạn Du lịch Công đoàn nằm ở đường Yersin, xây dựng từ năm 1936.
Ngày trước, đây là biệt thự của bác sỹ Lemoine, nằm trên một ngọn đồi cạnh hồ Xuân Hương có diện tích hơn 15 ha. Sau đó bác sỹ Sohier thành lập một dưỡng đường tư. Kiến trúc mang dáng dấp vùng Bretagne với sự phô diễn các khối tường đầu hồi tam giác vững chắc và mạnh mẽ. Cảnh quan khu vực rất yên tĩnh, thơ mộng với rừng thông được gìn giữ tương đối tốt, trải tầm nhìn về mặt nước hồ Xuân Hương và toàn cảnh trung tâm thành phố xa xa. 2.3 Trường học 2.3.1 Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt Trường Lycée Yersin được hình thành từ 2 trường: Petit Lycée (khánh thành năm 1927) và Grand Lycée (khởi công xây dựng năm 1929 và hoàn thành năm 1941). Ngày 28-6-1935, trường Grand Lycée mang tên Lycée Yersin. Về sau, trường đổi tên thành Trung tâm Giáo dục Hùng Vương, hiện nay là Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt. Trước đây, khuôn viên đất dành cho 7trường có tổng diện tích 22,3ha, nằm cạnh bờ hồ Xuân Hương. Toàn bộ khu vực chính gồm 8ha, nằm trên đỉnh đổi tương đối bằng phẳng. Sườn phía tây và tây nam nghiêng về phía hồ Xuân Hương. Sườn phía nam có độ dốc tương đối cao, nhìn xuống thung lũng, giáp Xí nghiệp Bản đồ Đà Lạt. Sườn phía bắc khá bằng phẳng có một sân bóng đa dụng. Công trình này do kiến trúc sư Moncet thiết kế, với việc vận dụng táo bạo về mặt kích thước của kết cấu, cũng như dùng gạch ép ốp tường và mái lợp ngói ardoise (thạch bản) xanh đen được vận chuyển từ Pháp sang.
Đây là một ngôi trường có kiến trúc độc đáo hiếm thấy không chỉ ở nước ta, được xây dựng vào những năm 30 của thế kỷ XX, ảnh hưởng bởi hình thức kiến trúc tân cổ điển. Bố cục mặt bằng chặt chẽ, tổ hợp kiểu hành lang bên. Tầng trệt để trống làm sân chơi trong nhà (préau) với những cột tròn, khẩu độ 8 x 8m. Tầng lầu gồm các lớp học, bên ngoài mỗi lớp đều có tủ âm tường là nơi để áo khoác, áo mưa của học sinh. Nếu đứng trên quan điểm của các nhà kiến trúc theo chủ nghĩa công năng thì việc lựa chọn hình dạng mặt bằng của các lớp học trong công trình này (tường không xây theo đường thẳng mà bị ép uốn cong theo hình dáng tổng thể, nhằm đề cao hình tượng nghệ thuật của công trình) gần như dẫn đến kết quả “hình thức phi công năng”. Khối lớp học “uốn mình” theo một đường cung tròn mềm mại (vòng cung ngoài dài 90m, vòng cung trong dài 77m), ôm lấy khoảng sân khá rộng và một tháp chuông lợp ngói thạch bản vút lên cao 54m, như một dấu ấn mạnh mẽ hình cây bút vươn cao giữa rặng thông xanh, soi bóng xuống mặt hồ Xuân Hương thơ mộng. Trên mặt đứng khối lớp học, cứ mỗi bước cột lại có hai vòm cung tròn xây bằng gạch đất nung với tỷ lệ hài hòa tạo nên vẻ đẹp thanh thoát cho khối nhà. Nét cách tân trong khối lớp học thể hiện ở phần mái dốc, bẻ góc ở phần đuôi mái, có hệ thống cửa sổ mái. Cùng một trục với dãy lớp học chính, qua một dãy hành lang nối có mái che bằng bê tông lượn sóng và hai hàng cột tròn là khối hành chính. Đây là một tòa nhà hai tầng gồm ba phần mái nhà liên thông nhau theo hình chữ U. Công trình được thiết kế theo hình thức tân cổ điển Pháp. Mặt bằng hoàn toàn đối xứng, gồm 5 phần: phần giữa là một sảnh lớn, hai bên là hai buồng lớn và hai khối đầu hồi là các buồng nhỏ. Song song với hai dãy hành chính là hai dãy nhà (mỗi dãy gồm một tòa nhà ba tầng, một tòa nhà hai tầng) có kết cấu và trang trí mặt đứng đơn giản hơn, vừa dùng làm phòng học, vừa dùng làm ký túc xá cho học sinh. Vuông góc với các dãy nhà trên là một tòa nhà có quy mô nhỏ hơn dùng làm hội trường, phòng thí nghiệm,… Lối đi giữa các khu được nối bằng những dãy hành lang có mái che bằng bêtông lượn sóng, góp phần tô điểm thêm cho nét duyên dáng của tổng thể. Trong toàn bộ ngôi trường, đẹp nhất vẫn là dãy lớp học chính với đường nét thanh nhã, rõ ràng, hài hòa với vật liệu xây dựng. Khối hành chính, khối lớp học và phòng thí nghiệm cũng kết thành một dạng kiến trúc Thụy Sĩ. Riêng dãy nhà nghỉ, nhà giặt, phòng hội trường,… lại được thiết kế theo dạng kiến trúc thông dụng của các trường học ở Pháp. Nhìn chung, đây là công trình kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn châu Âu, nhưng cũng đồng thời kết hợp được nhiều chi tiết kiến trúc bản địa để tạo thành một công trình kiến trúc hòa hợp giữa Đông và Tây. Được đánh giá là một kiến trúc theo phái hiện đại lúc bấy giờ, với công trình xây dựng trên vị trí tổng mặt bằng do kiến trúc sư Ernest Hébrard thiết lập, đây quả là một thành công của các tác giả khi gắn bó tổng thể công trình với địa hình khu vực, xứng đáng được các nhà phê bình, các kiến trúc sư và các nhà nghiên cứu kiến trúc nổi tiếng trên thế giới trong Hiệp hội Kiến trúc Quốc tế (UIA) công nhận là một trong số 1.000 công trình kiến trúc tiêu biểu của thế giới trong thế kỷ XX. Ngày 28-12-2001, Bộ Văn hoá – Thông tin đã công nhận Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt là Di tích Kiến trúc Quốc gia. 2.3.2 Trường Lê Quý Đôn Trường Le Sacré Coeur thành lập năm 1941, hai năm sau đổi tên là trường Adran, dạy chương trình tiểu học, rồi mở thêm trung học. Đây là trường nam trung học dạy chương trình Pháp, có nội trú dành cho con em gia đình khá giả. Trường được xây dựng trên một khu đất tương đối bằng phẳng ở đường Lương Thế Vinh. Trường được thiết kế có đầy đủ tiện nghi dành cho một trường nam trung học, gồm các khối lớp học, văn phòng, hội trường đa dụng, phòng thí nghiệm, khu nội trú, sân chơi, khu thể thao có cả sân bóng chuyền, bóng đá. Kiến trúc trường có đường nét ngay ngắn, khung sườn bê tông cốt thép, tường xây gạch, mái lợp ngói dốc được tô điểm thêm bằng các cửa sổ mái (lucarne). Hiện nay, trường Adran là trụ sở của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lâm Đồng, một phần là trường tiểu học thực nghiệm Lê Quý Đôn. 2.3.3 Trường Dân tộc nội trú Lâm Đồng Trước kia, trường nữ tu Couvent des Oiseaux còn có tên gọi là Đức Bà Lâm Viên (Notre Dame du Langbian), hiện nay là Trường Dân tộc nội trú Lâm Đồng nằm ở góc đường Huyền Trân Công Chúa – Hoàng Văn Thụ, thuộc phường 5, thành phố Đà Lạt. Đây là trường nữ trung học đầu tiên dạy chương trình Pháp, xây dựng vào năm 1934, trên một đỉnh đồi khá bằng phẳng. Sườn phía đông bắc có độ dốc khoảng 30-400 đổ xuống đường Huyền Trân Công Chúa, phía đông có độ dốc nghiêng xuống thung lũng khóm Nam Thiên, phía bắc có độ dốc đổ xuống hướng Du Sinh.
Công trình này được thiết kế theo hình thức kiến trúc kết hợp, có thể tìm thấy ở đây những nét cổ điển xen lẫn hiện đại. Khối lớp học được thiết kế hai tầng, tổ hợp theo kiểu hành lang bên. Mặt tiền có sảnh nhô ra, phía trên là hình tam giác. Tường ngoài tầng trệt của một khối được ốp đá với những cửa sổ hình cung gãy, các tầng trên có tường xây gạch và cửa sổ ô vuông . Sự kết hợp theo kiểu dưới thô trên tinh này là nét đặc trưng của kiến trúc Phục Hưng. Phòng chờ ở sảnh chính rộng khoảng 30m2, có bậc cấp và hành lang để đi vào phía trong, hàng lang sau đi vào lớp, nhà ngủ và nhà ăn. Công trình bám theo dáng địa hình, do đó có sự giật cấp, tạo ra các không gian phong phú và sinh động. Phía cánh sau bố trí nhà ở của các nữ tu, giáo viên và nhà hiệu trưởng. Mặt bằng tổng thể khá quy mô, có sân chơi trong trường, riêng sân trường phía trước rộng và khá đẹp. Cạnh trường còn có một nhà nguyện dành cho khoảng 200 nữ tu với kiến trúc theo kiểu ogival, có một lầu chuông nhỏ, mặt bằng hình chữ nhật, bước cột tương đối nhỏ. Nội thất công trình thật ấn tượng với hệ thống chiếu sáng và kết cấu đỡ mái. Mái có độ dốc khá lớn, đỡ mái là hệ khung bê tông cốt thép, li tô gỗ, mái lợp ngói đất nung. Tường rất thấp, không gian nội thất được chiếu sáng bởi những cửa sổ kính màu được chia ô nhỏ. Cửa chính mang đậm nét kiến trúc gothic, có hình cung gãy và đá ốp dossage, các họa tiết trang trí (có tỷ lệ rất đẹp) làm bằng sắt được gắn trên hai cánh cửa gỗ. Tường ngoài khối nhà này cũng ốp đá theo kiểu dossage kết hợp với bê tông phun gai nhằm tạo nên những nét thô nhám, mạnh mẽ cho công trình. Điểm trên mảng tường lớn là một vài cửa sổ hình lưỡi mác. Trường học và nhà nguyện nối nhau bởi một lối đi với hệ thống bậc thang và hành lang bằng đá. Toàn bộ khu vực trường có kiến trúc khá đẹp và hài hòa với rừng thông bao bọc xung quanh, tạo không khí yên tĩnh, thoáng mát, rất phù hợp với việc giảng dạy và học tập. 2.3.4 Trường Đại học Đà Lạt Theo đồ án quy hoạch Đà Lạt năm 1923 của KTS Hébrard, một vùng đất rộng lớn phía bắc thành phố được dành cho khu quân sự. Năm 1930, một trại lính được thành lập trên một khu đất cao ráo rộng 38ha, nằm cạnh sân golf, mang tên là trại Courbet (Camp Courbet). Năm 1939, trại lính chuyển thành Trường Thiếu sinh quân (École d’Enfants de Troupe). Đến năm 1957, Viện Đại học Đà Lạt được thành lập trên cơ sở trường này, thuộc quyền sở hữu của Hội đồng Giám mục Công giáo miền Nam Việt Nam. Chương trình chỉnh trang được KTS Nguyễn Mỹ Lộc nghiên cứu thiết lập dựa theo quan niệm mới về thiết kế trường đại học của Mỹ (The Long-range Campus). Đó là cách tổ chức, bố trí các công trình chức năng nằm phân tán trong công viên xanh đẹp, yên tĩnh, nối liền nhau bằng những con đường đầy hoa cỏ và bóng mát cây xanh. Có hơn 40 công trình làm thành một quần thể kiến trúc đẹp nằm ẩn mình trong rừng thông tĩnh lặng. Mỗi hạng mục kiến trúc đều có nét riêng, cũ có, mới có. Đa số là kiến trúc mới với mặt tường ốp đá và đá rửa. Nổi bật nhất là nguyện đường Năng Tĩnh với tháp chuông hình khối tam giác vững chãi vượt cao 38m lên nền trời xanh. Đối với cảnh quan thành phố, từ tầm nhìn chính, đây là điểm nhấn táo bạo nhưng đạt hiệu quả thẩm mỹ. Sau năm 1975, trường được khôi phục như là một trường đại học tổng hợp có quy mô vùng, đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực đa ngành cho vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Trường Đại học Đà Lạt là một trong những trường đẹp nhất trong cả nước với cách bố trí rất đặc trưng Đà Lạt: hơn 40 công trình lớn nhỏ nằm ẩn khuất trong khuôn viên cây xanh gần 30 ha rất thích hợp cho việc học tập, nghiên cứu khoa học.
Toàn cảnh Đại học Đà Lạt (1960) Trong những năm gần đây, đáp ứng nhu cầu to lớn của xã hội, trường đã không ngừng mở rộng quy mô đào tạo. Để kịp thời thích ứng với quy mô đào tạo mới này, nhà trường tiếp tục nâng cấp, cải tạo một số hạng mục đã xuống cấp, trong đó đáng chú ý là khu giảng đường A30 (xây dựng năm 1996 với diện tích sàn 1.000 m2), nhà A27 (xây dựng năm 1998 với diện tích sàn 2.959,5m2), nhà A8 (xây dựng năm 1992 với diện tích sàn 1.518m2), thư viện (xây dựng năm 2003 - 2004 với diện tích sàn 8.424 m2), nhà thể thao đa năng (xây dựng năm 2003). Nhà thể thao đa năng được bố trí thích hợp ở vị trí thung lũng, chung quanh có cây xanh bao bọc nên mặc dù sử dụng đường nét kiến trúc mới, hiện đại, mạnh khoẻ nhưng không ảnh hưởng lớn đến nét chung của tổng thể. Trái lại, hai khu giảng đường A27, A30 đặt khá gần đường giao thông chính với hình thức khác hoàn toàn với các kiến trúc cũ hiện hữu, đã làm cho tổng thể có hiện tượng bị chia cắt đột ngột, mặc dù riêng bản thân công trình đã có được sự nghiên cứu công phu. 2.3.5 Trung tâm Đào tạo của Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt Đây nguyên là Giáo hoàng Học viện Pio X, một cơ sở tôn giáo có dáng dấp hiện đại, nơi đào tạo linh mục cho toàn miền Nam trước đây. Đại chủng viện được xây dựng xong vào năm 1957, do KTS Tô Công Văn, giáo sư Trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn thiết kế. Nằm bên cạnh Đồi Cù, thấp thoáng trong vườn cây xanh, Giáo hoàng Học viện Pio X là một công trình kiến trúc đẹp của thành phố Đà Lạt. Chính ở đây, kiến trúc đã giải quyết mối tương quan giữa con người và tự nhiên bằng một giải pháp tương đối êm đẹp. Để có chỗ cho hàng trăm người vừa ăn, vừa ở, vừa học tập trên một diện tích không lớn ở trung tâm thành phố, KTS Tô Công Văn đã giải quyết các khối nhà bốn tầng bố trí giật cấp theo địa hình sườn đồi và các phần phụ tận dụng khéo léo ở tầng hầm. Toàn bộ diện tích còn lại, hơn 80% là công viên cây xanh, sân tập thể thao, đường giao thông và đường đi dạo. Ở đây, nhu cầu ăn ở của con người đã được giải quyết đầy đủ, cây cỏ, đường đi dạo, nơi giải trí, sân chơi chung và cho từng tầng đều đạt yêu cầu cao. Ngày nay, công trình này là Trung tâm Đào tạo của Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt. 2.4 Kiến trúc dinh thự Đà Lạt có một số dinh thự lớn như Dinh I, II, III,... Đây chính là những toà nhà lớn được xây dựng đặc biệt dành cho các nguyên thủ quốc gia. Đặc điểm của các dinh thự này là kiến trúc chính luôn ngự trị trên đỉnh đồi cao, nơi có điểm nhìn đẹp nhất, khống chế toàn bộ khu vực chung quanh, thường gắn liền với khu vườn lớn bên cạnh làm nền đẹp cho công trình và làm nơi dạo chơi, ngoạn cảnh. 2.4.1 Dinh I Dinh I là một hệ thống công trình rất lớn ở đường Trần Quang Diệu, thuộc phường 10, thành phố Đà Lạt, nằm cách trung tâm Đà Lạt chừng 4km về hướng đông nam, trên một ngọn đồi với cảnh quan đẹp và thơ mộng, độ cao 1550m có rừng thông bao quanh. Tổng diện tích khoảng 60ha, độ dốc trung bình khoảng 500. Nguyên đây là biệt thự của nhà triệu phú - một viên chức người Pháp - Robert Clément Bourgery. Ông là chủ nhà máy điện ở Thượng Hải và đã cho xây dựng biệt thự này vào trước những năm 1940. Công trình được xây dựng ở giữa rừng thông, trên một chỏm đồi nhìn xuống thung lũng rừng săn bắn xưa kia của Bảo Đại.
Sau khi Bảo Đại được người Pháp đưa trở lại nắm quyền (1949), thấy nơi đây khá đẹp và yên tĩnh nên chính phủ Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng đã mua lại từ tháng 8-1949 và cho sửa sang toàn bộ dinh cơ này. Vua Bảo Đại đã dùng dinh cơ này làm tổng hành dinh và nơi làm việc cho các quan chức. Đến năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm sử dụng làm dinh dành riêng cho Tổng thống. Dinh được sửa sang lại, làm thêm đường hầm, hai bên có phòng làm việc của các phụ tá, sỹ quan,… Đường hầm này là lối thoát hiểm, kín đáo thông ra một sân bay trực thăng nhỏ, đề phòng các cuộc pháo kích và đảo chính. Sau khi Ngô Đình Diệm bị trừ khử, dinh thự này vẫn được dùng làm nơi nghỉ mát của các nguyên thủ quốc gia kế tiếp của chế độ cũ cho đến năm 1975. Sau năm 1975, dinh được dùng làm nhà khách của Trung ương và sau đó do Công ty DRI quản lý và sử dụng. Dinh nằm trong một rừng thông xanh thẫm. Lối vào dinh là một con đường rải nhựa với hai hàng cây tràm thân trắng cao vút. Cuối con đường là một đảo hoa hình quả trứng (oval) làm bình phong trang trí để xoay chuyển hướng đến sảnh đón chính của toà nhà. Chính yếu tố này đã tôn thêm vẻ cổ kính cho công trình. Quanh đó còn có một số hạng mục công trình kiến trúc khác như nhà dành cho ngự lâm quân, nhân viên phục vụ và một hệ thống sân sườn, bể nước vòi phun, lối đi dạo, vườn ngự uyển dẫn vào rừng săn bắn có chỗ nghỉ chân với hồ tắm thiên nhiên tạo thành một quần thể kiến trúc đẹp, sang trọng và hoàn chỉnh. Tòa nhà chính gồm một tầng hầm, một tầng trệt, một tầng lầu. Mặt bằng được bố cục đối xứng với lối vào chính giữa, hệ thống cầu thang và hành lang mở ra hai bên. Tầng trệt có sảnh lớn, phòng tiếp khách, phòng họp lớn,... Lầu 1 gồm các phòng ngủ bao quanh một hành lang giữa. Dinh I được xây dựng kiên cố, tường xây gạch đá, mái lợp ngói. Trên mái có nhiều cửa sổ, mái bẻ góc ở đuôi, có một số ống khói. Nét cổ điển không chỉ thể hiện ở sự đối xứng nghiêm ngặt trong mặt bằng mà còn nằm trên hệ cửa sổ với những vòm cung tròn. Phần nửa dưới của tầng trệt xây bằng đá chẻ, phần còn lại xây gạch. Toàn bộ hệ thống cửa, cầu thang, sàn lầu, vật dụng đều bằng gỗ. Cửa chính cũng có dạng vòm cung nguyên nhưng lại được kết hợp với mái đón bằng ngang, đó là một điểm cách tân trong kiến trúc dinh I. Mặt đứng công trình được trang trí với nhiều tiểu tiết càng làm tăng thêm dáng vẻ cổ kính, uy nghi mà tao nhã. Dinh I là một công trình kiến trúc độc đáo, thể hiện rõ những ảnh hưởng của trào lưu kiến trúc tân cổ điển của châu Âu. 2.4.2 Dinh II Dinh II là dinh thự mùa hè của Toàn quyền Decoux hay còn gọi là Dinh Toàn quyền, là nơi ở và làm việc của Toàn quyền Decoux vào mùa hè hàng năm (từ tháng 5 đến tháng 10). Tọa lạc trên một đồi thông rợp bóng với độ cao 1539m so với mực nước biển, được bao bọc bởi đường Trần Hưng Đạo và Khởi Nghĩa Bắc Sơn. Diện tích rộng khoảng 26ha, trong đó khu dinh thự 10ha và khu vực cảnh quan được quy hoạch 16ha.
Đây quả là một toà lâu đài tráng lệ gồm 25 phòng được bài trí cực kỳ sang trọng, nằm trên đỉnh đồi cao, quanh năm bát ngát thông xanh và xen giữa là những thảm cỏ mọc tự nhiên. Từ độ cao này, phía trước, qua những tán lá thông có thể nhìn thấy thấp thoáng mặt hồ Xuân Hương gợn sóng lăn tăn ở cách xa khoảng 500m. Phía bắc hồ là đồi Cù với những mặt cỏ xanh mướt, và xa hơn nữa đỉnh núi Lang Biang ẩn hiện trong mây. Tất cả như một bức tranh sơn thủy tuyệt đẹp. Công trình này do các KTS A.T. Kruzé, D. Veyssere, A. Léonard thiết kế và P. Foinet trang trí nội thất. Việc xây dựng tiến hành từ năm 1933 đến năm 1937 mới hoàn tất. Hình thức kiến trúc dinh thự này chịu nhiều ảnh hưởng của trào lưu cách tân kiến trúc châu Âu. Sự cách tân được thể hiện ở việc nó được thiết kế với các mái bằng đồ sộ, bố cục hình khối lớn ở dạng cân bằng không đối xứng. Cả mặt bằng và mặt đứng công trình đều được giải phóng khỏi thế đối xứng nghiêm nghị của trường phái cổ điển, đi vào khai thác các bố cục hình khối tự do. Nhằm thỏa mãn mục đích vừa là nơi ở, nơi tiếp khách và nơi làm việc, nên mặt bằng công trình được bố trí khá hiện đại. Toàn bộ tầng trệt được bố trí cho các phòng làm việc, phòng tiếp khách gắn liền với các tiểu kiến trúc công viên. Tất cả các phòng ngủ ở tầng trệt được nhóm lại xung quanh một sảnh lớn. Ở đây các tác giả dự kiến sự phát triển sau này của Đà Lạt có thể phải sử dụng các phòng ở riêng làm phòng khách lớn. Không gian kiến trúc ở đây như hòa trộn với nhau thông qua các lối đi vào cửa sổ bằng kính có khung thép rất lớn nhưng vẫn không phá vỡ không khí ấm cúng của các phòng. Cuối đại sảnh là một cầu thang lớn dẫn đến các phòng có bố cục không đối xứng nhưng lại rất hợp lý với đầy đủ tiện nghi được sắp xếp một các hài hòa. Toàn bộ tầng lầu được dành riêng cho sinh hoạt gia đình. Mái hiên lối vào chính, đồng thời là sân trời cho tầng hai, có hình vòng cung. Các đầu máng xối cong là những đường nét đặc trưng của trào lưu hiện đại của công trình này. Dường như các kiến trúc sư không quan tâm đến những chi tiết trang trí, do đó mặt đứng công trình thật đơn giản với những mảng - hình khối lồi lõm một cách linh động. Phía trước đại sảnh có một mái che vươn ra đón khách khi xe đỗ (porch), đây là một giải pháp nhằm tăng tính uy nghi, bề thế cho công trình. Đặc biệt, đây là công trình đầu tiên sử dụng vật liệu đá rửa (màu sáng) phủ tường ngoài, cũng như các bộ phận vốn làm bằng gỗ thì nay được làm bằng kim loại mang từ Pháp. Công trình được gắn với một khoảng sân lộ thiên có đặt vòi phun nước, có tượng thần vệ nữ sơn nhũ vàng. Xung quanh sân bao bọc bởi những bức tượng thật duyên dáng làm cho con người dường như ấm hơn lên trong tiết trời se lạnh của thành phố cao nguyên. Toàn quyền Decoux đã cho xây dựng những đường hầm bí mật rất kiên cố nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho ông và gia đình. Đường hầm này được nối vào hầm chứa rượu với bề ngang chừng 1,5m, cao khoảng hơn 1m, có nhiều ngõ ngách và được đúc bằng bê tông chắc chắn. Dinh II là một trong những công trình kiến trúc đẹp của Đà Lạt, mang nhiều dấu ấn gắn liền với lịch sử của đất nước. Sau 1975, nơi đây trở thành nhà khách Trung ương và hiện nay được dùng làm nhà khách của Uỷ ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng. 2.4.3 Dinh III Dinh III là tên gọi để chỉ biệt điện của vua Bảo Đại (Dinh Bảo Đại), vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn, đồng thời cũng là vị hoàng đế cuối cùng của các triều đại phong kiến Việt Nam. Sau khi người Pháp đưa Bảo Đại trở lại nắm quyền từ 1948 rồi thành lập “Hoàng triều cương thổ” vào 1950, nơi đây còn được gọi là biệt điện Quốc trưởng. Công trình được xây dựng trong khoảng từ năm 1933 đến năm 1938. Dinh III được đánh giá là dinh thự đẹp đẽ và trang nhã nằm giữa một rừng thông thuần chủng, gắn liền với các tiểu cảnh kiến trúc công viên, vườn Thượng Uyển, rừng Ái Ân và một hồ nước nhỏ hòa quyện vào nhau một cách rất hợp lý và thơ mộng. Dinh được bố trí trên một đỉnh đồi mà trong dự án chỉnh trang Đà Lạt của KTS Hébrard dành cho dinh toàn quyền. Ngọn đồi này có độ cao 1539m ở đường Triệu Việt Vương.
Về hình thức kiến trúc, Dinh III cũng là một trong những công trình chịu ảnh hưởng của trào lưu cách tân về kiến trúc ở châu Âu. Điểm đáng lưu ý ở đây là phía bên phải cổng vào và phía sau dinh có một vườn hoa nhỏ theo kiểu vườn hoa ở các cung điện của Pháp, bố cục theo hình kỷ hà. Tại đây trồng nhiều cây cảnh được cắt tỉa đẹp, những cụm hồng quý nở quanh năm theo những bố cục đối xứng qua hai trục. Có một bồn hoa rộng phía trước dinh được chăm sóc chu đáo. Những con đường đi dạo nhỏ quanh dinh nằm ẩn mình dưới những tán lá thông, xen kẽ giữa các đám cỏ xanh. Tương tự như dinh II, dinh III cũng là một công trình đồ sộ với hệ thống mái bằng, các mảng - khối được bố cục cân đối nhưng không đối xứng một cách cứng nhắc. Phía trước sảnh chính cũng có mái hiên đưa ra che vị trí đậu xe. Tầng trệt là phòng khách, các phòng làm việc, văn phòng của vua Bảo Đại, thư viện, các phòng giải trí và một phòng ăn lớn. Đặc biệt, các phòng làm việc đều được gắn với các tiểu cảnh kiến trúc, các không gian trong và ngoài liên hệ với nhau qua các cửa đi và cửa sổ bằng kính khung thép, tạo ra một khung cảnh hài hòa giữa kiến trúc và thiên nhiên. Toàn bộ tầng hai được dùng cho sinh hoạt gia đình, gồm các phòng sinh hoạt, các phòng ngủ của vua Bảo Đại, hoàng hậu Nam Phương, các công chúa và hoàng tử. Từ phòng ngủ của vua Bảo Đại có một cửa ra sân thượng còn gọi là Vọng Nguyệt Lâu. Đứng ở đây có thể ngắm nhìn vườn hoa, đường đi dạo, đồi thông và cả thung lũng phía xa xa. Ván gỗ vẫn là vật liệu chính để ốp cầu thang, sàn lầu và làm các vật dụng nội thất của dinh. Dinh III là một công trình kiến trúc đẹp, gắn liền với một giai đoạn lịch sử đặc biệt của nước ta. Có thể thấy rằng, tất cả các dinh thự đều được nằm ở vị trí trên đỉnh đồi cao, chiếm một diện tích lớn với rừng thông bao phủ xung quanh. Công trình kiến trúc chỉ là một điểm nhấn nhẹ nhàng, thấp thoáng giữa cây cỏ, thiên nhiên. Như vậy, tất cả các dinh thự ở Đà Lạt tuy chịu ảnh hưởng của những hình thức kiến trúc khác nhau nhưng đều có giá trị và đặc biệt là sự hòa hợp với yếu tố tự nhiên, vừa tận dụng vừa tôn tạo thêm cho vẻ đẹp của thiên nhiên. 2.5 Kiến trúc biệt thự Bên cạnh các dinh thự, hệ thống biệt thự ở Đà Lạt đã có nhiều đóng góp rất lớn trong việc làm phong phú cảnh quan kiến trúc, và là một trong những nét đặc trưng của thành phố này. Có lẽ, Đà Lạt là một thành phố có nhiều biệt thự nhất nước ta. Những kiến trúc xinh xắn là nơi cư ngụ của một hộ gia đình ẩn dưới những tán lá thông xanh thẫm và bao quanh bởi nhiều loại hoa và cây cảnh khác nhau. Các biệt thự được dựng lên với những kiểu dáng hết sức đa dạng, hầu như mỗi ngôi biệt thự đều phô ra một diện mạo riêng, một vẻ đẹp riêng. Điểm đáng chú ý là gần như không có cái nào giống cái nào, nhưng nếu nhìn toàn cục thì nó lại có tính thống nhất và hài hòa với môi trường thiên nhiên, mặt khác nó còn góp phần đáng kể làm tăng thêm nét độc đáo và hấp dẫn cho thành phố cao nguyên xinh đẹp này. Đa phần các biệt thự xây ở Đà Lạt từ năm 1940 trở về trước đều do các kiến trúc sư người Pháp thiết kế. Sau năm 1940, có một số do kiến trúc sư Việt Nam được đào tạo ở Trường Mỹ thuật Đông Dương cũng tham gia thiết kế xây dựng nhiều công trình. Các kiến trúc sư Pháp đã có những quan niệm rất đúng đắn trong việc đưa ra các tiêu chí nhằm bảo vệ cảnh quan chung của thành phố. Mỗi biệt thự được xây dựng đều bám theo dạng địa hình, có vườn hoa, cây xanh, nằm cách xa nhau và có tầm nhìn cảnh quan đẹp (nhìn ra rừng thông, nhìn xuống thung lũng, nhìn về hướng các đỉnh núi Lang Biang). Số tầng cao của biệt thự được quy định không quá ba tầng kể cả tầng trệt để không phá vỡ cảnh quan. Trong các bản vẽ quy hoạch thành phố đã quy định rõ ràng vị trí cho phép xây dựng biệt thự. Tất cả các công trình xây dựng đều phải do kiến trúc sư thiết kế và chịu trách nhiệm về thẩm mỹ. Mọi dự án xây dựng đều phải qua phòng quy hoạch đô thị của Sở Công chánh. Dựa theo diện tích đất xây dựng, người ta phân chia các biệt thự ở Đà Lạt thành một số loại nhất định. Biệt thự cao cấp có diện tích phân lô trên 1.500m2, là nơi ở hay nghỉ mát của các tầng lớp thượng lưu tập trung ở các trục đường Trần Hưng Đạo, Hùng Vương, Lê Hồng Phong, Lê Lai, Nguyễn Du,… Hầu như các biệt thự này đều nằm xa trục đường chính và được bố trí cách xa nhau từ vài chục đến vài trăm mét. Về hình thức kiến trúc, các biệt thự Đà Lạt từ năm 1954 về trước chịu ảnh hưởng nhiều của kiến trúc địa phương Pháp. Nguyên nhân chính là do chủ nhà người Pháp ở trong cảnh xa quê mong muốn tìm lại hình ảnh của những “mái nhà kiểu Pháp” để có thể phần nào vơi đi nỗi nhớ quê hương. Các kiểu kiến trúc địa phương Pháp du nhập vào Đà Lạt được thể hiện dưới nhiều hình thức, theo nguyên mẫu hoặc được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện khí hậu địa phương. Theo thống kê, đã có rất nhiều biệt thự được thiết kế theo hình mẫu của kiểu kiến trúc miền Bắc nước Pháp (chủ yếu là kiến trúc Nomandie). Kiểu biệt thự này xuất hiện ở Đà Lạt hầu hết dưới dạng nguyên mẫu (áp đặt), rất ít trường hợp có sự thay đổi vì khí hậu miền Bắc nước Pháp có nhiều điểm tương đồng với khí hậu Đà Lạt, cho nên kiểu mẫu này hoàn toàn phù hợp để xây dựng tại đây. Mặt khác, có thể do số người Pháp định cư ở Đà Lạt là người gốc Bắc Pháp khá nhiều nên những “mái nhà quê hương” của họ chiếm tỷ lệ lớn.
Để phân loại cụ thể, các biệt thự ở Đà Lạt thường có các phong cách kiến trúc như sau: Phong cách kiến trúc vùng Normandie Phong cách này có các đặc tính điển hình sau: - Có hoặc không có lầu, biệt thự kiểu Normandie có khung sườn nhà bằng gỗ tốt, xây chèn gạch. Khung sườn nhà có tỷ lệ cân xứng dựa trên mặt bằng hình chữ nhật đơn giản. - Đôi khi, phần tường dưới bệ cửa sổ được xây bằng đá chẻ hoặc bằng gạch nhỏ để trần không tô trát. - Mái lợp ngói phẳng cỡ nhỏ, có cửa sổ mái tam giác (lucarne à fronton). Nhà có 2 hoặc 4 mái với mái vạt góc (croupe). Độ dốc mái lớn, đặc trưng kiểu kiến trúc xứ lạnh. Phong cách kiến trúc vùng Bretagne - Hình khối thường nằm ngang, thấp và vững chắc, chống đỡ mưa và gió bão tốt. - Sử dụng vật liệu tại chỗ để giới thiệu đặc điểm của vùng. - Mái ở mặt bên thường được lợp bằng thạch bản (ardoise). - Tường đầu hồi (pignon) hình tam giác có đỉnh rất nhọn (độ dốc lớn), che kín bờ mái dốc và thường gắn kết với ống khói lò sưởi. - Mặt tường nhà hướng nam được trổ một vài cửa sổ có kích thước vừa phải để che chắn tốt cho bên trong nhà. - Cửa sổ mái (lucarne) hình tam giác có công dụng lấy sáng cho tầng lầu hoặc cho tầng áp mái. - Cửa đi và cửa sổ thường được xử lý có khung viền xây bằng đá chẻ kích thước lớn. Phong cách kiến trúc vùng Provence Phong cách này chịu ảnh hưởng kiến trúc Tây Ban Nha và vùng Địa Trung Hải. Các vùng này có khí hậu nóng, ít mưa nên kiểu kiến trúc này ở Đà Lạt đã có nhiều biến đổi cho phù hợp với điều kiện khí hậu thời tiết tại chỗ. - Khối công trình có bố cục nằm ngang. - Nhà mái ngói hoặc mái bằng, mặt bằng tự do. Đối với nhà lợp mái ngói, độ dốc của mái tương đối thoải. Thường sử dụng ngói ống hình máng (tuile canal) lợp âm dương. Độ vươn xa của mái không lớn và thường được trang trí thêm bằng 1 hoặc 2 hàng ngói ống bao quanh đầu bờ tường trông rất nhẹ nhàng đặc sắc (génoise). Phong cách kiến trúc vùng Basque - Tường đầu hồi là mặt chính của kiến trúc (thường gọi là kiễu chữ A) nổi lên khung sườn gỗ. Có 2 mái không cần phải đều nhau: mái dài, mái ngắn. Đôi khi mái dài gần sát mặt đất. - Mái vươn xa ra khỏi tường đầu hồi và được đỡ bằng các console gỗ. - Tường xây gạch, quét vôi màu nhạt với nhiều cửa sổ nhỏ bằng gỗ sơn màu sẫm. Phong cách kiến trúc vùng Savoie Đặc điểm kiến trúc gần giống như kiến trúc xứ Basque: - Tường đầu hồi là mặt chính của nhà. - Tầng dưới xây, tầng trên bằng gỗ, bao lơn dài suốt mặt tường. - Hình thức kiến trúc có 2 mái, độ dốc vừa phải, mái vươn rất rộng trên tường đầu hồi để che chở cho các cửa đi, cửa sổ và cả balcon. 2.6 Kiến trúc nhà ở 2.6.1 Nhà phố Trong các dự án quy hoạch của thành phố Đà Lạt, dạng nhà ở căn phố chỉ được xuất hiện ở những khu trung tâm thương mại hoặc nằm dọc theo các trục đường dành cho thương mại như khu Hòa Bình, đường Phan Đình Phùng, Nguyễn Văn Trỗi,… Nhà ở căn phố là loại hình cư trú dành cho các gia đình buôn bán nhỏ (chủ yếu là những gia đình người Việt, ngoài ra có một số gia đình người Hoa) sử dụng để ở và kết hợp với buôn bán nhỏ, được xây dựng thành từng dãy nhà liên kế, mỗi dãy có từ 6 đến 8 căn, mỗi căn có từ 2 đến 3 tầng. Điều này hoàn toàn phù hợp với ý đồ quy hoạch chung của thành phố, với những quy định nghiêm ngặt về chiều cao tối đa cho mỗi công trình (nhỏ hơn hoặc bằng 3 tầng, kể cả tầng trệt). Tương tự như dạng nhà phố trong giai đoạn Pháp thuộc ở Hà Nội hoặc Sài Gòn, mặt bằng mỗi nhà có hình chữ nhật, không đòi hỏi diện tích đất lớn (chiều rộng khoảng 4 - 5m và chiều dài khoảng 12 - 16m, tổng cộng khoảng 50 - 80m2/1 căn nhà). Mật độ xây dựng xấp xỉ 60 - 80% diện tích lô đất (mật độ xây dựng này đã được Sở Công chánh đề ra và các công trình đều được xây dựng đúng theo chỉ tiêu cho phép). Phần còn lại là các sân trong (patio) để lấy ánh sáng, xử lý thông thoáng vệ sinh, trồng cây xanh. Hệ thống sân trong này tạo thành những điểm xanh trong khu ở, đưa thiên nhiên vào nhà, lấy ánh sáng và cũng là một hệ thống thông gió tự nhiên làm môi trường sống trong lành hơn. Hiện nay, đa phần nhà phố đều xây dựng hết toàn bộ lô đất vì áp lực của giá trị sử dụng đất, cho nên các kiểu nhà phố như thế sẽ không đảm bảo điều kiện ăn ở, vệ sinh tối thiểu. Kiến trúc mỗi căn nhà phố giống hệt nhau, với 8m dài là không gian chính gồm: mặt tiền tầng trệt dành cho việc buôn bán, phía trong có cầu thang lên lầu, phòng sinh hoạt chung và các phòng ngủ bố trí ở tầng trên; 4m tiếp theo là một khoảng sân trong dùng để thông gió và chiếu sáng tự nhiên có kèm theo khối vệ sinh - nhà tắm; 4m cuối cùng là một phòng gồm có bếp nấu kết hợp với không gian ăn và kho phụ. Kiến trúc mặt tiền tương đối đơn giản, không trang trí cầu kỳ. Đa số ngôi nhà có phần mái được lợp ngói màu đỏ, độ dốc khoảng 300 - 450, phủ lên toàn bộ dãy nhà, tạo nên một thể thống nhất và hài hòa với hình dạng địa hình của thành phố. Vật liệu sử dụng để xây dựng thể loại nhà phố cũng tương tự như vật liệu dùng xây dựng các biệt thự: mái lợp ngói đất nung, các cửa sổ và cửa đi hầu hết làm bằng gỗ, trừ một số trường hợp bằng sắt - kính, sàn lầu và cầu thang ốp gỗ, tường xây gạch, đá, cũng có trường hợp sử dụng kết cấu bêtông cốt thép. Các dãy phố thường được thiết kế uốn cong theo hình dạng địa hình và ôm sát theo lộ giới của những con đường, con dốc quanh co trong thành phố, tạo nên một nét đặc sắc riêng cho thành phố cao nguyên này, đó là một sự độc đáo khó tìm thấy trong các đô thị khác ở Việt Nam. Việc xây dựng các dãy nhà phố hay từng căn nhà đơn lẻ, cũng như số tầng cao tối đa của các công trình này đều được chính quyền thành phố kiểm soát chặt chẽ, và thực tế hầu như không có trường hợp vi phạm chính, vì thế mà tất cả đều nằm trong một tổng thể thống nhất, hài hòa với cảnh quan, với ý đồ quy hoạch chung toàn thành phố. 2.6.2 Cư xá Những nhà ở dạng cư xá thường dành cho gia đình của các công chức. Cư xá thường có vị trí gần những công trình công cộng và công sở, vì những công chức làm việc ở đó (như cư xá Nha Địa dư trên đường Yersin). Không gian sử dụng trong các cư xá được bố cục theo những kiểu dáng khác nhau, mỗi gia đình ở trong một căn hộ riêng biệt, có cư xá bố trí một căn hộ có hai tầng, nhưng cũng có loại cư xá bố trí mỗi căn hộ chỉ thuộc một tầng, diện tích mỗi hộ khoảng 72 - 100m2. Mặt đứng rất đơn giản, không trang trí rườm rà, kiến trúc và kết cấu tương tự như trường hợp của nhà ở căn phố. Về mặt không gian kiến trúc, các nhà chuyên môn gọi nhà cư xá gồm nhiều căn là thể loại biệt thự biến dạng và quy định hướng dẫn xây dựng giống như ở khu biệt thự (có khoảng thối lui so với lộ giới, có khoảng cách giữa các nhà, các căn nhà có chung một mái,…). Biệt thự song lập với một diện tích sử dụng và sân vườn tương đối nhỏ cũng là dạng nhà ở cư trú dành cho một số hộ gia đình công chức. Kiểu nhà này xây dựng nhiều ở các khu cư xá công chức dọc theo các trục đường Hai Bà Trưng, Phạm Ngọc Thạch,… Loại hình kiến trúc này có dạng kết cấu, cấu tạo và vật liệu xây dựng tương tự như kiến trúc biệt thự, nhưng phải có tường chung ở giữa chia không gian nhà thành hai không gian riêng biệt cho hai hộ. 2.6.3 Kiến trúc một khu dân cư ngoại thành Có thể tham khảo hình thức dân cư đặc trưng của Đà Lạt tại các khu vực ấp Hà Đông, Nam Hồ. Ở đây nhà ở mang tính chất nhà vườn, diện tích mỗi lô đất từ 1500m2– 3000m2. Khoảng 500m2 – 700m2 đất dành cho nhà, công trình phụ và lối đi, còn lại là vườn cây ăn quả và rau hoa Đà Lạt. Để có thể trồng trọt được và tăng diện tích vườn rau, một số khu dân cư này đã tạo lập nên những thửa vườn bậc thang bám theo những sườn đồi. Đây cũng là một yếu tố góp phần tạo ra nét đặc sắc của cảnh quan thành phố Đà Lạt . Kiến trúc từng công trình có thể chưa đẹp, vì lý do kinh tế cũng như trình độ thẩm mỹ. Tuy nhiên, nhìn toàn cảnh, đây chính là một bức tranh phong cảnh đặc sắc. Có thể nhìn thấy rõ từ trên quốc lộ 20, toàn bộ thôn ấp nằm dưới thung lũng, vào một buổi chiều mờ mờ sương khói, những ngôi nhà xinh xinh bé bé bên cạnh vườn cây ăn quả che khuất một phần, phần đất trồng rau bậc thang chạy dài thật ngoạn mục xuống con suối nhỏ bên dưới, những hồ chứa nước, những cụm khói bếp gợi nhớ bữa cơm chiều đầm ấm. 2.6.4 Nhà ở có vườn Nhà ở có vườn dạng kiến trúc phổ biến trong địa bàn thành phố Đà Lạt. Trước năm 1963, tất cả đều được lợp mái ngói hoặc fibro sơn màu. Gắn liền với nhà là vườn tược, nơi tạo ra nguồn sống cho người dân. Ở đây, nhà ở kết hợp với sản xuất kinh tế phụ, các loại hoa và rau quả. Yếu tố địa hình ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng các khu vực nhà ở trước đây, việc xây dựng phá vỡ địa hình tự nhiên là một điều nghiêm cấm. Tuy nhiên, trước áp lực của giá trị đất trung tâm, càng ngày các khu phố Đà Lạt càng giống vùng đồng bằng với các dãy nhà sát nhau và ngay với mặt đường giao thông, đắp và đào đất ở các địa hình dốc. Để đảm bảo vẽ đẹp tự nhiên của địa hình đồi núi, thành phố Đà Lạt có nhiều con đường xử lý được bằng những biện pháp kiến trúc đơn giản. Ở các trục đường Hai Bà Trưng, Hoàng Diệu, Trần Bình Trọng, Yết Kiêu... tất cả các công trình kiến trúc đều có những khoảng lùi nhất định. Chính khoảng lùi này đã đảm bảo cho việc đi lại được dễ dàng, cũng như tạo một khoảng vườn hoa trước mỗi công trình. Từ năm 1975 đến nay, để đáp ứng nhu cầu nhà ở cho cán bộ, công chức và người lao động, các cơ quan chức năng của thành phố đã tiến hành xây dựng nhiều khu cư xá mới như cư xá Ngô Quyền, Thi Sách (1994); cư xá Đặng Thái Thân (1996); cư xá Nguyễn Trung Trực (1998 – 2002); cư xá Khe Sanh (2007 – 2008)… với tổng diện tích sàn xây dựng hơn 30.000 m2 cho khoảng 500 căn hộ.
Cư xá Khe Sanh (2008) 2.6.5 Trục đường biệt thự Mỗi một biệt thự là một đóa hoa kiến trúc xinh đẹp và thành phố Đà Lạt là một vườn hoa lớn với những trục đường biệt thự muôn hình muôn vẻ. Trên các trục đường chính của thành phố từ đường Trần Hưng Đạo đến Hùng Vương, Hoàng Văn Thụ, Lê Hồng Phong,… chúng ta rất ít khi tìm thấy hai biệt thự giống nhau. Cũng mái ngói, cũng tường gạch nhưng mỗi biệt thự mang một dáng vẻ riêng, nói lên được quê hương, tính cách từng chủ nhân. Với tinh thần hoài niệm, nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn, người Pháp đã xây dựng ở đây những ngôi biệt thự mang dáng dấp vùng quê mình tại Pháp. Các biệt thự này nằm rất xa đường, hầu như tất cả là mái ngói. Thông thường màu đỏ và màu xanh là hai màu tương phản trên pallet màu, rất ít khi hai màu này được xếp sát nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, trên trục đường này hay nói chung trên toàn thành phố, màu đỏ của ngói và màu xanh của cây qua một khoảng cách không gian nhất định lại tự hoà nhập với nhau và tạo thành những điểm ấm áp trong bức tranh xanh thẳm của nền rừng thông. Diện tích xây dựng của các trục biệt thự này thường không quá 20% đất. Phần còn lại chính là phần rừng thông có sẵn được giữ lại làm vườn dạo và cây xanh công trình. Chính tỷ lệ khống chế này đã tạo được một nét rất riêng cho các khu vực biệt thự Đà Lạt. Khu cư xá Hỏa xa gồm 12 ngôi biệt thự nằm rải rác trên ngọn đồi cạnh nhà ga xe lửa. Kiến trúc đẹp đơn giản và mạnh mẽ mang dáng dấp vùng núi Alpes với tường xây đá kiểu, cửa cuốn vòm, mái ngói kéo lệch. Mỗi biệt thự một kiểu tạo thành một tổng thể phong phú nhưng rất hài hòa. 2.6.6 Nhà sàn Buôn là đơn vị quan trọng trong xã hội đồng bào dân tộc bản địa. Những người đã sống trong cùng một buôn có sự liên đới cổ truyền với nhau một cách mạnh mẽ, cả những người tuy ở khác buôn nhưng cùng một sắc dân, toàn thể coi như là phần tử trong gia đình. Sự cách nhau giữa các buôn tuỳ theo điều kiện địa hình, địa vật và nơi canh tác của họ. Thường thì cách nhau hai, ba cây số. Những ngôi làng người Lạch thường được quần tụ ven bờ suối, dưới chân núi, dọc theo thung lũng nhỏ hẹp hoặc nằm rải rác ở các sườn đồi hẻo lánh. Khu đất lập buôn được khai hoang sạch sẽ, trống trải, chỉ chừa lại những cây lớn. Nhà ở trong buôn được dựng lên rất tuỳ tiện, không có một trật tự rõ rệt nào cả. Những khoảng trống còn lại là nơi sinh hoạt, ngồi chơi, phơi nắng, cũng là nơi thả heo gà,... Xung quanh buôn làng có hàng rào với cổng vào đơn sơ. Những ngày hội lễ, ở đầu buôn có treo các vật biểu tượng như: đầu trâu, cành lá,... Đặc điểm của buôn người Lạch là không có nhà rông. Thay vào đó, nhà của vị già làng sẽ là nơi hội họp, tiếp khách. Có những bộ tộc xoay hướng nhà của họ về phía nhà vị già làng hoặc về phía con đường lớn hay dòng suối chảy ngang qua. Có 2 loại chính: 1) Nhà cho hộ riêng lẻ có các loại sau: - Nhà sàn cao cẳng (1m-1,5m), kho thực phẩm ở bên ngoài nhà. - Nhà sàn thấp cẳng (0,5m – 0,8m), kho ở bên ngoài nhà. - Nhà có 1 phần hạ xuống đất, kho ở bên trong nhà. 2) Nhà hẹp và dài (sàn thấp) hơn 50m, có khi đến 70 – 80m dành cho nhiều hộ gia đình trong gia tộc, kho lúa ở ngoài nhà. Kiểu nhà sàn thông thường cao cách mặt đất từ 0,8m tới 1,2m, chiều cao trung bình của nhà là 4 - 5m, dài khoảng 7m. Người Lạch ở trên sàn do nhiều lý do: · Đất có độ dốc địa hình nên làm nhà sàn để giải phóng mặt bằng. · Điều kiện khắc nghiệt của khí hậu miền núi, chống khí độc, thú dữ. · Đất dễ thấm nước, đất tơi xốp, mùa mưa thì lầy lội, mùa nắng thì bụi mù nên họ ở nhà sàn cho sạch sẽ. · Nhà sàn là sản phẩm kế thừa của tổ tiên, người Lạch ít chịu suy nghĩ cải cách, thường hành động theo thói quen. Vật liệu xây dựng Người Lạch dùng các loại thảo mộc địa phương (tranh, tre, nứa, lá, vầu, hóp, mai, bương) làm bộ xương mái. Họ dùng gỗ tốt (cẩm lai, gụ, giổi, đinh hương) để làm cột, cây trám làm quá giang, ổi rừng làm sà dọc và dầm sàn. Về lạt buộc, ngoài tre còn phải kể đến song, mây và các dây rừng như đùng đình, thèm bép,… Để làm vách, họ dùng tre hay lồ ô đan thành phên hoặc thanh tre chẻ nhỏ buộc khít vào nhau. Kết cấu Cấu trúc bộ sườn đơn giản. Mỗi vì kèo gồm 2 cột cái đẽo tròn, chân cột chôn sâu xuống đất 0,4m, đầu cột được khoét để ôm lấy xà dọc. Ngoài ra bên cạnh cây quá giang chính cũng có thể có 1 quá giang phụ cho mỗi vì cột, cây này cũng được ngàm ở hai đầu để giữ xà dọc. Nhà không có vì kèo thật mà chỉ có những hàng kèo giả mặt kèo giả cách nhau 0,8m. Về kết cấu sàn, dầm ngang được ốp vào cột cái bằng ngàm khoét vào dầm và cột siết chặt bằng dây mây, cột theo hình chữ thập. Mái nhà thường có 2 mái, đôi khi có thêm 2 mái phụ ở đầu hồi, trên mái cũng như trên đường nóc không có hoa văn trang trí gì cả. Nhà có 2 cửa đi đặt gần chính giữa 2 hồi. Cửa trước nhìn ra lối xuyên thôn dành cho khách và đàn ông, cửa sau dành cho phụ nữ và người nhà. Chỗ góc 2 hồi nhà có sàn nước dùng để rửa chân. Không gian bên trong Nhà nhỏ có từ 1 đến 2 cái bếp, nhà dài có nhiều bếp, mỗi bếp một hộ. Nhà dài chứa khoảng 10 gia đình, ở giữa nhà là một dãy bếp đặt theo chiều dọc của nhà sàn, mỗi gia đình một bếp. Dọc theo mặt vách là chỗ ngủ chạy từ đầu nhà đến cuối nhà và được chia thành từng ngăn cho mỗi gia đình. Trong nhà, họ để ché rượu, gùi thóc, gùi đựng quần áo và trên vách treo chiêng, còng, rìu, xà gạc, chỗ để củi,…
|
||
|
|
|
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH
PHỐ ĐÀ LẠT |