NỘI DUNG CHÍNH

Lời giới thiệu

PHẦN THỨ NHẤT : LƯỢC SỬ
TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH

Chương I:  Lược sử hình thành và phát triển thành phố Đà Lạt

Chương II: Truyền thống đấu tranh cách mạng

PHẦN THỨ HAI : TỰ NHIÊN
VÀ DÂN CƯ

Chương I: Tự nhiên

Chương II: Dân cư

PHẦN THỨ BA : KINH TẾ

Chương I : Nông nghiệp – lâm nghiệp

Chương II :  Du lịch và dịch vụ

Chương III: Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp

Chương IV : Cơ sở hạ tầng kỹ thuật

PHẦN THỨ TƯ : VĂN HÓA XÃ HỘI

Chương I:   Văn học nghệ thuật, thiết chế văn hóa và báo chí

Chương II: Quy hoạch và kiến trúc

Chương III: Y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ

Chương IV: Tín ngưỡng và tôn giáo

TỔNG LUẬN

Niên biểu thành phố Đà Lạt

Danh sách Bà mẹ Việt Nam anh hùng thành phố Đà Lạt

Danh sách các đơn vị được tuyên dương danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”

Danh sách các Bí thư chi bộ, Thành uỷ Đà Lạt qua các thời kỳ

Danh sách các Thị trưởng Đà Lạt (1901-1975)

Danh sách các Chủ tịch Uỷ ban quân quản, Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Lạt

Alexandre Yersin

Về phong cách Đà Lạt

Người Cơ Ho ở Đà Lạt

Đường phố Đà Lạt

Danh mục các ngôi đình ở Đà Lạt

PHẦN THỨ NHẤT

LƯỢC SỬ VÀ TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH

 

2.     THỜI KỲ  1945 – 1954

Chiến tranh thế giới lần thứ hai đi vào giai đoạn khốc liệt, quân đội Đồng Minh, đi đầu là Liên Xô mở chiến dịch phản công phe phát xít. Từ năm 1940, một số đảng viên bắt liên lạc với nhóm “Tiến Bộ” thành lập Ban Cán sự và Uỷ ban Mặt trận Phản đế  Đà Lạt.

Sau cuộc Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945),  Nhật kéo quân lên Đà Lạt chuẩn bị đối phó với Đồng minh, Chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật được thành lập. Nguyễn Tiến Lãng, sau đó Hoàng thân Ưng An được cử làm Tỉnh trưởng tỉnh Lâm Viên.

Phối hợp với Uỷ  ban khởi nghĩa tỉnh Khánh Hòa, trong sáu ngày (23 - 28-8-1945), nhân dân đã tham gia khởi nghĩa giành chính quyền tại hai tỉnh Lâm Viên và Đồng Nai Thượng. Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Lâm Viên được thành lập do ông Phan Đức Huy làm Chủ tịch, chấm dứt ách đô hộ của thực dân Pháp. Từ sau sự kiện lịch sử trọng đại này, sự vận động của lịch sử Việt Nam đã thay đổi, người Pháp không còn khả năng và hết tham vọng thực hiện giấc mơ  phát triển Đà Lạt thành thủ phủ Đông Dương.

Đây là thời kỳ giao thời, bộ máy chính quyền do người Pháp cai trị chuyển dần sang người Việt Nam. Tình hình Việt Nam lúc này nổi bật lên một số sự kiện quan trọng.

Pháp tái chiếm Việt Nam với ý đồ giành lại quyền hành ở Đông Dương. Thierry d’Argenlieu, Cao uỷ Pháp tại Đông Dương, ngoan cố chống đối nền độc lập của Việt Nam, tìm cách phá hiệp định sơ bộ 6-3-1946, tự ý thành lập xứ Nam Kỳ tự trị. Tháng 5-1946, Đà Lạt chứng kiến hội nghị trù bị cho hội nghị Fontainebleau (7-9-1946), một hội nghị không đem đến kết quả mong muốn. Dưới áp lực của các kiều dân Pháp ở Đông Dương, chính quyền Pháp tìm cách thoả hiệp với các đảng phái khác ở Việt Nam và dùng cả quân sự nhằm cô lập và đẩy Chính phủ Việt Minh sang phía đối lập. Kết cục là đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đọc “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Uỷ ban hành chính được đổi là Uỷ ban hành chính kháng chiến.

*

Năm 1946, đáp lời kêu gọi kháng chiến của Uỷ ban Kháng chiến tỉnh Lâm Viên, đại bộ phận nhân dân Đà Lạt đã tản cư rút xuống vùng ven. Dân số  Đà Lạt bị giảm xuống đột ngột, năm 1946 còn 5.200 người. Vài năm sau, người  Đà Lạt mới hồi cư trở lại và đến 1947 dân số lên đến 18.513 người và cuối năm 1952 lên đến 25.041 người. Trong thời kỳ này, người Pháp đang thắng thế về mặt quân sự, Việt Minh rút lui vào rừng núi để lập căn cứ kháng chiến.

Cuộc chiến ngày càng bất lợi cho thực dân Pháp, chính quyền ở Đông Dương đang tìm kiếm một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam. Các đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia chống đối cộng sản nhóm họp tại Hương Cảng quyết định thành lập Mặt trận quốc gia đặt dưới quyền lãnh đạo của Bảo Đại, tuyên bố sẵn sàng hợp tác với Pháp nếu Pháp thừa nhận nền độc lập của Việt Nam.

Để chuẩn bị cho Bảo Đại trở về nước, cả hai phía đã tiến hành một loạt hoạt động. Ngày 8-3-1949, một thoả hiệp được ký giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Bảo Đại, đến 30-12-1949 nước Pháp tuyên bố  cho Việt Nam độc lập trong Liên hiệp Pháp.

Ngày 15-4-1950, Bảo Đại ký Dụ số
6-QT/TD thành lập Hoàng triều Cương thổ bao gồm cao nguyên miền Bắc và miền Nam.

Ngày 14-12-1950, Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Kháng chiến Nam Trung Bộ Nguyễn Duy Trinh ký nghị định sáp nhập hai tỉnh Lâm Viên và Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng.

Ngày 22-2-1951, Phó Thủ tướng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng ký nghị định hợp nhất  hai tỉnh Lâm Viên và Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng.

Ngày 11-4-1951, phi trường Liên Khàng sáp nhập vào Đà Lạt.

Ngày 30-10-1951, sáp nhập làng Đa Phú, Phước Thành, Trại Mát vào Đà Lạt.

Ngày 10-11-1951, Bảo Đại ký Dụ số 4-QT/TD ấn định ranh giới thị xã Đà Lạt: phía bắc đến Đan Kia, phía đông đến núi Láp-bê Nam, phía nam được xác định theo tọa độ (117 grat 8804 kinh độ đông, 13 grat 2304 vĩ độ  bắc), phía tây - nam đến sân bay Cam Ly. Diện tích 67 km², chưa kể sân bay Liên Khàng với 34 km².

Trong giai đoạn này, bộ máy hành chính vẫn giữ nguyên hiện trạng của giai đoạn trước. Thị xã do một thị trưởng quản lý với sự tham dự của Hội đồng thị xã. Thị trưởng có hai phó thị trưởng phụ tá và một thư ký của Hội đồng thị xã. Hội đồng gồm 22 thành viên được phân bổ như sau: 10 uỷ  viên chính thức người Việt Nam do chỉ định và 4 dự khuyết do dân bầu, 6 uỷ viên chính thức người Pháp và 2 dự khuyết do Khâm sứ chỉ định bằng nghị định. Nhiệm kỳ của Hội đồng  thị xã và Hội đồng khu phố là hai năm.

Về tổ chức hành chính, Đà Lạt có văn phòng toà thị chính và các sở: Y tế, Quản lý đường bộ, Cảnh sát, Thú y, Thuế và An ninh.

Các đơn vị hành chính cấp dưới là 10 khu phố với 30 ấp:

Khu phố Ấp
I Ánh Sáng, An Hoà, Đa Hoà, Ga
II Nam Thiên, Mỹ Thành, Đa Cát, Đa Trung, Đa Thuận, Đa Thành
III Cao Bá Quát, Nguyễn Siêu, Đinh Công Tráng, Bạch Đằng, Cao Thắng
IV Tây Hồ, Đa Lợi, Sào Nam
V Phước Thành
VI Đông Hòa, Tây Thuận, Trung An
VII Saint Jean, An Lạc, Xuân An
VIII Tân Lạc
IX Hà Đông, Nghệ Tĩnh, Đa Thiện
X Đa Phước

 

Đà Lạt còn là thủ phủ của Hoàng triều Cương thổ, Cao nguyên miền Nam, nên có nhiều công sở các cơ quan liên tỉnh, quốc gia và liên bang đóng tại đây.

Cơ quan liên tỉnh:  Nha An ninh Đặc biệt, Thanh tra Tiểu học, Hạt Đường sắt, Chi cục Thuế quan, Chi cục Bưu chính - Viễn thông, Đài Phát thanh Đà Lạt, Sở Thông tin.

Cơ quan Cao nguyên miền Bắc và Cao nguyên miền Nam: Khâm sứ, Tổng thư ký, Thanh tra hành chính và chính trị, Thanh tra lao động, Ban hành chính và thanh tra địa phương, Thanh tra thuỷ lâm, Khu công chính Cao nguyên miền Nam và các sở thuộc Cao nguyên miền Nam: Tài chính, Nông nghiệp, Thú y, Thuế, An  ninh và Cảnh sát quốc gia, Xã hội.

Cơ quan quốc gia: Văn phòng quốc trưởng, Tòa Hoà giải, Trường Quốc gia Hành chính, Trường trung học Bảo Long, Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp.

Cơ quan liên bang: Toà án hành chính hỗn hợp, Sở Địa dư Đông Dương, Trường trung học Yersin, Bệnh viện Dân y, Sở Hàng không dân dụng Liên Khàng, Sở Nội vụ, Sở Kỹ thuật vô tuyến, Sở An ninh, Viện Pasteur.

Cơ quan quân sự: Đà Lạt là tổng hành dinh của đại tá tư lệnh khu Đồng Nai Thượng,  trung đoàn Ngự Lâm Quân cũng đóng tại đây, bệnh viện Catroux tiếp nhận bệnh nhân trong quân đội bảo vệ thị xã và các phân đội biệt động của cơ quan an ninh quốc gia bảo đảm an ninh cho thành phố.

Sự cố gắng của chính quyền Pháp và chế độ Hoàng triều Cương thổ trong giai đoạn này là hạn chế đến mức tối đa các luồng cư dân của người Việt Nam lên  Đà Lạt, làm cho dân số suốt 9 năm trời hầu như không hề thay đổi, vẫn giữ mức của năm 1945 tuy có thay đổi về cơ cấu.

Đà Lạt tuy bình  yên  nhưng  không  được xây cất gì thêm, ngoại trừ trường dành cho học sinh miền núi (École  montagnarde du Lang Bian) vào tháng 3-1947, theo chủ trương chia để trị và việc thành lập “Tây Nguyên tự trị” của D’Argenlieu. Một đường hàng không Hà Nội – Đà Lạt  được xây dựng xong (1948).  Đà Lạt vẫn là nơi nghỉ ngơi du lịch của quan chức người Pháp và bản xứ.

Trong khoảng thời gian 1945 - 1954, mạng lưới trường học phát triển rộng khắp với nhiều loại hình đa dạng. Trước hết, Trường chỉ huy liên quân thành lập 1950 và Trường Quốc gia Hành chính thành lập ngày 1-1-1953. Cho đến năm 1953  Đà Lạt có tất cả 3 trường trung học công lập (Lycée Yersin, Lycée Bảo Long, Lycée vietnamien), 7 trường sơ học công lập (trường Nam  Đà Lạt, Nữ  Đà Lạt, Đa Nghĩa, Đa Thành, Xuân An, Tây Hồ và Đa Phước), 5 trường tiểu học công lập (trường Đa Lợi, Trung Bắc, Đa Phú, Phước Thành, Tây Hồ và trường miền núi Lang Bian. Về trường tư thục, Đà Lạt có 4 trường trung tiểu học (Notre Dame du Lang Bian, Adran, Ste Marie, Tuệ Quang) và 5 trường sơ tiểu học trong đó có một trường  Hoa. Ngoài ra, còn phải kể đến trường thiếu sinh quân Đà Lạt được thành lập từ trước.

Trung tâm Đà Lạt (1950)

Bản đồ thị xã Đà Lạt năm 1953

 

Về đầu trang

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT
NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Thiết kế trang web: Sở KH&CN Lâm Đồng